Bài viết này AD sẽ chia sẻ cho các bạn về Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, với bài mẫu chuyên ngành Luật và đặc biệt dành đối với các bạn đang làm đề tài về Tố tụng. Bài viết này của một bạn sinh viên khá giỏi qua quá trình làm bài đã đạt 9 điểm, xứng đáng để các bạn tham khảo và vận dụng vào bài làm của mình.
Thời gian tới AD sẽ chia sẻ thêm nhiều tài liệu và bài mẫu hơn cho các bạn thoải mái tham khảo. Chưa dừng lại ở vấn đề cung cấp tài liệu cho các bạn, AD còn nhận các bài Tiểu luận, báo cáo, khóa luận,… nếu các bạn có nhu cầu cần thuê người viết thì liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan ngay và luôn để được hỗ trợ tư vấn nhanh chóng nhé!
Phần mở đầu Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
1. Lý do chọn đề tài Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự làm bài
Với chủ trương, quan điểm xây dựng “nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”, nước ta luôn coi trọng quyền lợi của các chủ thể trong xã hội và điều này được thể chế hóa thành các quy định pháp luật trong hệ thống pháp luật quốc gia. Trong lĩnh vực dân sự, khi phát sinh tranh chấp các bên đương sự có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân để giải quyết tranh chấp và đảm bảo được quyền và lợi ích cho bản thân. Khi khởi kiện, người khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm, bởi vậy có thể coi họ chính là chủ thể bị xâm phạm trực tiếp.
Không chỉ đối với nguyên đơn, trong hoạt động tố tụng dân sự, bị đơn với vai trò là một trong các đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự cũng được pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp thông qua quyền được đưa ra yêu cầu phản tố (sau đây gọi là “YCPT”). Có thể nói, những quy định về YCPT chính là cơ sở pháp lý cụ thể cho thấy quan điểm của nhà lập pháp trong việc đồng ghi nhận việc bảo vệ quyền tố tụng của bị đơn. Không những vậy, thông qua quy định này, việc giải quyết của tòa án sẽ khách quan, công bằng và minh bạch hơn, góp phần bảo vệ quyền con người và nhà nước pháp quyền Việt Nam. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự” làm đề tài để nghiên cứu tại bài Tiểu luận. Theo đó, trong phạm vi bài tiểu luận này, học viên tiến hành nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, đồng thời chỉ ra thực trạng, vướng mắc tồn tại trong hoạt động tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền YCPT của bị đơn. Sau cùng, từ những vấn đề đã nêu, học viên đề xuất những kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giải quyết các vụ việc dân sự trên thực tế.
XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN
2. Tình hình nghiên cứu
Với tầm quan trọng và sự cần thiết của việc ghi nhận YCPT trong tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bị đơn, trên thực tế đã có nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm và nghiên cứu, tìm hiểu về nội dung này. Một số công trình nghiên cứu về YCPT trong tố tụng dân sự điển hình có thể đề cập tới như:
- “Đoàn Thị Ngọc Hải (2018), Quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân”. Bài viết này của tác giả tập trung đi tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích chuyên sâu về quy định pháp luật tố tụng dân sự về việc quy nhận quyền phản tố của bị đơn.
- “Bành Quốc Tuấn (2020), Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự, Báo cáo thực tập tốt nghiệp trường Đại học Công nghệ TP. HCM”. Bài báo cáo của tác giả tập trung đi nghiên cứu quy định pháp luật về YCPT theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đồng thời liên hệ thực tiễn với việc giải quyết YCPT tại Tòa án nhân dân Quận 8 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- “Dương Tấn Thanh – TAND thị xã Duyên hải, tỉnh Trà Vinh (2019), Yêu cầu phản tố theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và vướng mắc trong thực tiễn, Bộ Tư pháp”. Tương tự như đối với những bài viết nêu trên, bài viết của tác giả Dương Tấn Thanh tập trung đi tìm hiểu, nghiên cứu về một số quy định pháp luật hiện hành và chỉ ra những vướng mắc còn tồn tại liên quan đến YCPT trong tố tụng dân sự.
Có thể thấy rằng, số lượng tài liệu nghiên cứu xoay quanh vấn đề về YCPT trong tố tụng dân sự khá nhiều. Mặc dù vậy, với sự phát triển, thay đổi của thực tiễn của với hệ thống pháp luật qua thời gian, việc liên tục tìm hiểu, đánh giá và phân tích về nội dung này vẫn là vấn đề cần thiết và đáng để lưu tâm. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
*. Đối tượng nghiên cứu:
Bài tiểu luận nghiên cứu và phân tích và tìm hiểu về YCPT trong tố tụng dân sự, liên quan tới cả lý luận và thực tiễn.
*. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về thời gian: Nội dung bài viết tập trung vào phân tích các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, còn hiệu lực; đồng thời đánh giá dựa trên thực tiễn áp dụng pháp luật trong khoảng thời gian kể từ khi văn bản pháp luật đó có hiệu lực thi hành cho tới nay.
- Phạm vi về không gian: Liên quan tới nội dung về YCPT trong tố tụng dân sự, học viên giới hạn nội dung tìm hiểu trong phạm quy Việt Nam nhằm đưa ra những ý kiến, bình luận, đánh giá xác đáng, chân thực và phù hợp nhất. Qua đó, những đề xuất đưa ra cũng liên quan trực tiếp tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tại nước ta liên quan đến nội dung này.
4. Phương pháp nghiên cứu yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
Quá trình nghiên cứu và hoàn thiện bài báo cáo tốt nghiệp được thực hiện bằng tổng hòa và kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật cùng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay là nền tảng. Một số phương pháp tiêu biểu được sử dụng tại bài báo cáo như sau:
- Phương pháp phân tích: đây là phương pháp phân chia những vấn đề chung, khái quát nhất thành những phần nội dung nhỏ, những bộ phận khác nhau.
- Phương pháp tổng hợp: phương pháp tổng hợp được áp dụng tại bài báo cáo nhằm liên kết, thống nhất những kết luận thuộc bộ phận nội dung đã được phân tích nhằm đánh giá khái quát lại toàn bộ vấn đề.
- Phương pháp đánh giá: phương pháp đánh giá được sử dụng thông qua việc đưa nhận thức, quan điểm của chính học viên về vấn đề nghiên cứu để tạo ra cách nhìn, nhận định khách quan nhất.
Ngoài ra, một số phương pháp khác như: phương pháp quy nạp, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, … cũng được vận dụng một cách hài hòa, linh hoạt nhằm đạt được mục đích cuối cùng của bài báo cáo được đề ra.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoại trừ phần mở đầu và phần kết luận, nội dung bài báo cáo được chia làm 2 phần chính như sau:
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về YCPT trong tố tụng dân sự
Phần 2: Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về YCPT trong tố tụng dân sự ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Cơ sở lý luận về yêu cầu phản tố
1.1.1. Khái niệm yêu cầu phản tố
Để hiểu về khái niệm YCPT trong tố tụng dân sự trước hết cần nắm được một số vấn đề cơ bản liên quan đến nội dung này.
Trước hết, để giải theo khía cạnh ngôn ngữ có thể hiểu “phản” là sự phản bác lại từ một phía đối với phía tấn công, “tố” là việc khởi kiện, liên quan đến hoạt động tố tụng theo pháp luật. Như vậy “phản tố” có thể hiểu là một quyền của “người bị tố”, đó là sự phản bác lại thông qua hoạt động tố tụng theo quy định pháp luật của bên bị tấn công đối với bên tấn công. Bên cạnh đó, “tố tụng dân sự” được hiểu là hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án nhân dân theo quy định pháp luật.
Như vậy, theo cách giải thích nêu trên, YCPT trong tố tụng dân sự được hiểu là: “yêu cầu của bên phía bị đơn (người bị khởi kiện) trong một vụ án dân sự nào đó đối với phía người kiện mình (nguyên đơn hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập)”. Hay nói cách khác, YCPT chính là việc người bị kiện được quyền kiện lại người khởi kiện mình”.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, YCPT chính là quyền của bị đơn trong hoạt động tố tụng dân sự, được áp dụng riêng cho phía bị đơn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn. Cụ thể, khoản 1 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”. Yêu cầu phản tố này không được xem xét riêng biệt như một yêu cầu khởi kiện mới mà được giải quyết trong cùng đơn khởi kiện của nguyên đơn tại vụ án đó.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, các nội dung có liên quan đến YCPT trong tố tụng dân sự sẽ được phân tích và tìm hiểu căn cứ trên khái niệm đã được nêu ra ở trên.
1.1.2. Ý nghĩa của yêu cầu phản tố
Như đã phân tích ở trên, YCPT là một quyền của bị đơn trong hoạt động tố tụng dân sự, theo đó, những quy định này có một số ý nghĩa nhất định. Việc ghi nhận đưa ra YCPT là một quyền của bị đơn giúp quyền của bị đơn, nguyên đơn và người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động tố tụng dân sự trở nên ngang hàng, cụ thể là ngang hàng với quyền được khởi kiện của nguyên đơn và quyền được đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Thông qua YCPT, bị đơn có thể đồng thời khởi kiện lại đối với nguyên đơn hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nếu như cũng thấy rằng quyền và lợi ích của mình trong vụ việc được nguyên đơn khởi kiện bị vi phạm bởi nguyên đơn hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Điều này giúp đảm bảo hoạt động xét xử được giữ trong thế công bằng, dân chủ giữa cả các bên đương sự tham gia tố tụng, điều này cũng tuân thủ đúng nguyên tắc được đặt ra trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN MẪU ĐIỂM CAO
1.2. Cơ sở pháp lý trong bài Tiểu luận Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
1.2.1. Chủ thể và đặc điểm của yêu cầu phản tố
Trước hết, về chủ thể của YCPT.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã được trích dẫn ở trên, chủ thể của YCPT bao gồm 2 trong ba đối tượng sau:
Thứ nhất, chủ thể có YCPT phải là bị đơn, tức người bị khởi kiện trong vụ án dân sự được giải quyết tại tòa án nhân dân. Theo đó, YCPT chỉ được thực hiện “khi và chỉ khi bị đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn”
Thứ hai, chủ thể bị đưa ra YCPT là “nguyên đơn hoặc người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đối với bị đơn”.
Tiếp theo, về đặc điểm của YCPT trong tố tụng dân sự bao gồm những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, YCPT được xem là một trong các quyền của bị đơn khi tham gia hoạt động tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự, bị đơn được thực hiện quyền đưa ra YCPT của mình nhằm kiện lại đối với “nguyên đơn hoặc người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ có liên quan” (nếu người đó có yêu cầu độc lập). Quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ trong Bộ luật Tố tụng dân sự, theo đó trong phạm vi thời gian, chủ thể, nội dung cho phép, bị đơn hoàn toàn có quyền đưa ra YCPT mà không bị bất kỳ bên nào ngăn cản, cấm đoán và được pháp luật bảo đảm thực hiện quyền này theo thủ tục nhất định. Mặt khác, cũng chính bởi là quyền nên việc thực hiện hay không phụ thuộc vào sự lựa chọn của bị đơn.
Thứ hai, YCPT chỉ phát sinh khi xảy ra sự kiện nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án nhân dân và được Tòa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý, sau đó, bị đơn cũng có đơn yêu cầu tòa án giải quyết các vấn đề trong cùng một vụ án dân sự có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn tại đơn khởi kiện khi bị đơn cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Như vậy, Hay nói cách khác, điều kiện cần là nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện và được tòa án thụ lý, điều kiện đủ là phát sinh từ ý chí của bị đơn, khi bị đơn có yêu cầu và muốn khởi kiện lại đối với “nguyên đơn hoặc người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan”.
Ví dụ: Anh X khởi kiện chị Y nhằm đòi lại số tiền mà chị Y đã vay là 100 triệu đồng. Sau đó, chị Y nói rằng anh X còn nợ chị Y số tiền 150 triệu đồng tiền mua nhà, yêu cầu anh X phải trả chị Y số tiền nêu trên để bù trừ với khoản nợ mà anh X đã khởi kiện đòi chị. Yêu cầu này của chị Y là YCPT.
Thứ ba, YCPT được đưa ra bởi bị đơn chỉ liên quan chứ không cùng với “yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”.
Theo đó tính liên quan có thể thể hiện ở mục đích, vấn đề, nội dung của YCPT. Ví dụ như bên nguyên đơn khởi kiện đòi tiền bị đơn thì bị đơn thực hiện quyền đưa ra YCPT về việc nguyên đơn cũng phải thanh toán bị đơn một khoản tiền khác bằng cách khấu trừ vào khoản tiền mà bị đơn đang bị nguyên đơn khởi kiện đòi. Tuy nhiên, yêu cầu đó không được cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, bởi khi đó sẽ chỉ được coi là ý kiến của bị đơn liên quan đến nội dung tố tụng mà không phải YCPT. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
Ví dụ: A khởi kiện B ra toà án với yêu cầu: (i) buộc B trả lại cho A một chiếc ô tô và (ii) toà án công nhận anh A có quyền sở hữu chiếc xe máy đó. Sau đó, bị đơn đã có đưa ra yêu cầu tới toà án: Toà án công nhận quyền của cả A và B đối với việc sở hữu chiếc xe máy mà không phải chỉ của riêng A. Trong trường hợp này, yêu cầu của B là cùng với yêu cầu khởi kiện của A, tức cùng liên quan đến việc quyền sở hữu được công nhận đối với chiếc xe máy. Hay nói cách khác, đây chỉ là ý kiến của B đối với yêu cầu khởi kiện của A (không đồng ý yêu cầu khởi kiện đó) chứ không phải YCPT.

1.2.2. Thời điểm đưa yêu cầu phản tố
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
“Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”
Như vậy, tại quy định này, quyền đưa ra YCPT của bị đơn chỉ được ghi nhận đến thời điểm cuối cùng là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Hay nói cách khác, thời điểm đưa ra YCPT của bị đơn được pháp luật cho phép là trong khoảng thời gian từ khi tòa án thụ lý vụ án tới khi phiên họp nêu trên được mở ra. Nghĩa là nếu YCPT được đưa ra sau thời điểm này sẽ không được tòa án tiếp nhận và xem xét
Tuy nhiên, tại quy định nêu trên không đưa ra số lần tối đa mà bị đơn được đưa ra YCPT, chính bởi vậy có thể được thừa nhận quan điểm rằng, việc đưa ra YCPT của bị đơn không bị giới hạn bởi số lần cụ thể. Nói theo một cách khác, bị đơn có thể đưa ra YCPT bao nhiêu lần cũng được, chỉ cần đảm bảo trong khoảng thời gian đã được nêu ra ở trên.
1.2.3.Hình thức yêu cầu phản tố
Liên quan đến hình thức YCPT, pháp luật về tố tụng dân sự cũng đưa ra một số quy định cụ thể yêu cầu bị đơn phải tuân thủ khi thực hiện quyền này của mình. Theo đó, bị đơn thực hiện quyền phản tố phải đáp ứng quy định hình thức như “khởi kiện của một vụ việc”. Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
“Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn”
Như vậy, tương tự như việc khởi kiện một vụ việc dân sự của nguyên đơn, bị đơn cũng phải soạn thảo đơn phản tố và gửi tới Toà án, đồng thời phải nộp tạm ứng án phí như nghĩa vụ của nguyên đơn: “Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm”. Khi đó, thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính laok “kể từ ngày bị đơn nộp đơn tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được miễn án phí thì tính từ ngày Toà án nhận được đơn phản tố”
Bên cạnh đó, khi đưa ra YCPT, bản thân bị đơn phải có chủ động trong việc chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ. Trường hợp đơn khởi kiện được nguyên đơn rút, nếu bị đơn không có YCPT thì vụ việc sẽ bị đình chỉ giải quyết, nhưng nếu bị đơn có YCPT thì khi đó vai trò của các đương sự trong vụ việc dân sự thay đổi; cụ thể bị đơn sẽ thành nguyên đơn, nguyên đơn hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Vụ việc lúc này không bị đình chỉ mà sẽ được Toà án giải quyết tiếp tục.
XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN NGÀNH LUẬT
1.2.4. Trường hợp chấp thuận yêu cầu phản tố
Khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định ba trường hợp mà “YCPT của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập” được chấp thuận như sau:
Thứ nhất, “yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”
Theo trường hợp này, cả hai bên (bên bị kiện và bên kiện) đều có nghĩa vụ với nhau do vậy có yêu cầu bù trừ qua lại. Giải thích một cách chi tiết hơn, “bị đơn có nghĩa vụ với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”; đồng thời “nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn”. Nhằm thực hiện “yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”, bị đơn đã yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự nhằm bù trừ nghĩa vụ của hai bên.
Thứ hai, “yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập” ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
Đây là trường hợp YCPT của bị đơn đối với “nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập” khi được chấp nhận sẽ làm loại trừ đi một phần hoặc toàn bộ việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bởi lý do không có căn cứ chứng minh.
Thứ ba, “Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn
Đối với loại YCPT này, vì lý do có sự liên quan, mối quan hệ với nhau giữa YCPT của bị đơn và “yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” dẫn tới việc nếu cùng được giải quyết trong một vụ án sẽ đẩy nhanh tiến độ và tăng chính chính xác cho vụ việc. Có thể hiểu, YCPT như một căn cứ mới có tác dụng làm sáng tỏ tình tiết, hỗ trợ giải quyết vụ tranh chấp hiện tại. Đồng thời, bởi cùng liên quan tới nhau nên toà án không phải giải quyết dưới một vụ tranh chấp khác gây mất thời gian, công sức, tiền bạc của các bên.
1.2.5.Hậu quả pháp lý của việc chấp thuận yêu cầu phản tố
Như những phân tích ở trên, trước hết khi bị đơn có YCPT và được toà án thụ lý sẽ làm đương sự có địa vị tố tụng bị thay đổi trong vụ việc dân sự. Cụ thể, đây là việc bị đơn kiện ngược lại nguyên đơn, được toà án xem xét thụ lý theo trình tự, thủ tục tương tự như đối với việc khởi kiện của nguyên đơn, do đó, nguyên đơn ban đầu sẽ trở thành bị đơn và bị đơn cũng sẽ trở thành nguyên đơn.
Bên cạnh đó, sau khi toà án chấp thuận YCPT của bị đơn, xuất phát từ những trường hợp chấp thuận YCPT đã được quy định tại khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có thể thấy những hậu quả pháp lý có thể xảy ra như sau:
Một là, nghĩa vụ của bị đơn đối với “nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” được bù trừ.
Hai là, “yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” bị loại trừ một phần hoặc toàn bộ.
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Một số bất cập về yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
Mặc dù pháp luật về tố tụng dân sự trải qua quá trình dài từ khi hình thành tới nay đã có sự phát triển qua những lần ban hành, sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, liên quan đến nội dung về YCPT của bị đơn trong pháp luật hiện hành khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những vướng mắc nhất định, gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của bị đơn, đồng thời ảnh hưởng tới công tác xét xử của toà án. Một số vướng mắc có thể kể đến như sau: ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
2.1.1.Vướng mắc về xác định yêu cầu phản tố
Mặc dù đã có những căn cứ pháp lý về việc xác định YCPT về mặt nội dung, tuy nhiên trên thực tế vẫn phát sinh nhiều trường hợp khó khăn trong việc xác định đâu là YCPT. Một số trường hợp tiêu biểu như:
Thứ nhất, khi xác định yêu cầu của bị đơn về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Thực tế hiện nay, liên quan tới các vụ tranh chấp hôn nhân và gia đình, tồn tại một số trường hợp về yêu cầu chia tài sản chung là: (i) khi khởi kiện, chia tài sản chung không được nguyên đơn không đưa ra trong yêu cầu, tuy nhiên sau đó bị đơn lại đưa ra yêu cầu về việc chia tài sản chung này; hay (ii) bị đơn đưa ra yêu cầu chia tài sản chung đối với tài sản khác mà yêu cầu của nguyên đơn chưa nhắc tới tài ản đó.
Liên quan tới thực tiễn này có nhiều quan điểm xét xử khác nhau đã được đưa ra để thực hiện và tranh luận. Quan điểm thứ nhất, cho rằng đây không phải là YCPT bởi không thuộc trường hợp nào liên quan tới nội dung YCPT được toà án chấp thuận theo quy định tại khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Thứ hai, khi xác định đối với yêu cầu của bị đơn về việc huỷ GCNQSDĐ của bị đơn trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, quan điểm khác lại cho rằng đây chỉ đơn thuần là yêu cầu huỷ quyết định cá biệt được quy định trong pháp luật. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự, “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”. Như vậy, việc huỷ GCNQSDĐ của toà án không phụ thuộc vào yêu cầu của bị đơn mà nếu có căn cứ xác đáng về việc không đúng quy định pháp luật thì Toà án có toàn quyền quyết định. Bên cạnh đó, việc huỷ GCNQSDĐ trong vụ án dân sự này xét về bản chất chính là yêu cầu “khiếu kiện hành chính” nhưng lại được giải quyết cùng ở vụ việc dân sự. Bởi vậy, chủ thể mà bị đơn phản tố trong yêu cầu chính là cơ quan hành chính có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ chứ không phải nguyên đơn. Do vậy, yêu cầu này không đáp ứng điều kiện là YCPT của bị đơn.
2.1.2.Vướng mắc về thời điểm bổ sung, thay đổi yêu cầu phản tố
Theo quy định tại “văn bản hướng dẫn 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có giải đáp”, cụ thể tại mục 7 Phần III có đưa ra quy định:
“Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
– Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.”
Tuy nhiên, do Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các hướng dẫn, giải đáp của Toà án nhân dân tối cao vẫn chưa đưa ra giải đáp hay hướng dẫn cụ thể nào về nội dung này. Bởi vậy, khi áp dụng pháp luật, các thẩm phán vẫn còn chưa thực sự quyết đoán, tự tin và không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về thời điểm bổ sung, thay đổi YCPT này.
2.1.3.Vướng mắc về thời điểm được quyền đưa ra yêu cầu phản tố
Liên quan đến nội dung vướng mắc này, cụ thể là trong trường hợp Toà án bổ sung đương sự tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau khi đã mở “phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải”, người này có yêu cầu độc lập đối với bị đơn, vẫn còn tồn tại vướng mắc liệu bị đơn có được quyền đưa ra YCPT hay không. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
Theo quy định của pháp luật hiện hành, toà án có quyền bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng ngay tại phiên họp kiểm tra giao nộp chứng cứ. Như vậy, nếu như quy định hiện hành giới hạn thời gian đưa ra YCPT của bị đơn là trước khi mở phiên họp này thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới được bổ sung có yêu cầu độc lập sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của bị đơn.
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
Xuất phát từ những vướng mắc nêu trên, đồng thời xem xét trên quy định pháp luật hiện nay, để hoàn thiện pháp luật về YCPT trong tố tụng dân sự, học viên đề xuất một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, cần bổ sung kịp thời hướng dẫn cụ thể hoặc giải đáp về việc xác định YCPT trong các trường hợp còn vướng mắc, cụ thể là liên quan đến yêu cầu chia tài sản chung và yêu cầu huỷ GCNQSDĐ nêu trên. Điều này giúp tạo sự đồng bộ trong quan điểm xét xử và xác định YCPT của cơ quan xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
Thứ hai, cần bổ sung quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và/hoặc Toà án nhân dân tối cao ban hành các hướng dẫn, giải đáp liên quan đến vấn đề xác định thời điểm bổ sung, sửa đổi YCPT. Bởi lẽ, xét về bản chất, văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền sẽ có giá trị áp dụng trên thực tiễn hơn so với những văn bản dưới luật đã được đề cập nêu trên.
Thứ ba, cần bổ sung quy định quy định chi tiết về việc xác định quyền đưa yêu cầu khởi kiện của bị đơn trong trường hợp toà án bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Theo quan điểm của học viên, trong trường hợp này, bị đơn vẫn cần được ghi nhận quyền đưa ra YCPT để đảm bảo công bằng trong quá trình xét xử, giúp bị đơn có thể nắm bắt được thông tin thay vì bị động khi có sự thay đổi bất ngờ của cơ quan xét xử.
XEM THÊM ==> Trọn bộ bài thu hoạch ngành Luật
Phần kết luận Tiểu luận Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự
Yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự là một trong những nội dung quan trọng góp phần bảo đảm tính công bằng, dân chủ trong hoạt động tố tụng dân sự, bảo đảm quyền của bị đơn, và đã được pháp luật ghi nhận. Thông qua bài tiểu luận này, với đề tài “Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự” học viên đã đưa ra những nội dung khái quát về vấn đề này. ( Tiểu luận: Yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, 9đ )
Trước hết, bài tiểu luận đã có những phân tích một cách tổng quan và cơ bản nhất về mặt lý luận, pháp lý của YCPT của bị đơn để đưa ra khái quát nhất bản chất của vấn đề đang được xét đến. Tiếp theo đó, xuất phát từ thực tiễn hiện hành, bài tiểu luận đã chỉ ra những vướng mắc, bất cập còn tồn tại liên quan đến cách hiểu và việc áp dụng pháp luật về YCPT của bị đơn trong thực tế hoạt động tố tụng dân sự. Điều này cũng đồng thời chỉ ra những thiếu sót trong hệ thống pháp luật, nguyên nhân của việc thiếu sót đó. Cuối cùng, để nhằm hoàn thiện hơn nữa quy định pháp luật, đảm bảo tính phù hợp trong thực tiễn áp dụng pháp luật, học viên đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành, đồng thời nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về vấn đề này.
Hiện tại, AD còn nhận các bài Tiểu luận, báo cáo, khóa luận, luận văn,… nếu các bạn có nhu cầu cần thuê người viết thì liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan ngay và luôn để được hỗ trợ tư vấn nhanh chóng nhé!