Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị

Rate this post

Tải miễn phí bài Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Chính trị học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Tư tưởng Hồ Chí Minh và tiểu luận về phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị trên chuyên mục tiểu luận Chính trị học.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Chính trị học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562


I.   Phần lý luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị

1.   Khái niệm quyền lực:

Quyền lực là một trong những vấn đề cơ bản của chính trị, do vậy đã từ rất sớm, khi ý thức được các vấn đề chính trị thì người ta cũng đã đề cập đến vấn đề quyền lực.

Từ thời cổ đại, ở phương Tây Arixtốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực tồn tại phổ biến trong mọi sự vật và hiện tượng, không chỉ trong thế giới cảm giác mà cả trong thế giới vô cảm. Đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, ông coi đó như là kết quả của sự thoả thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí chung của họ. Còn theo Platon, chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Cơ sở để đảm bảo sự cai trị đó là pháp quan, những nhà thông thái.

  • đây ông đề cao trí tuệ và coi đó như một thứ quyền lực trong chính trị. 

Tuy đã có nhiều quan niệm về quyền lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thật sự chính xác, xúc tích, khái quát được vấn đề để mọi người chấp nhận. Nhà chính trị học Mỹ K.Đanta cho rằng, nắm quyền lực có nghĩa là buộc người khác phải phục tùng.Còn nhà chính trị học Mỹ khác – Lesbi lipson – xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ hành động phối hợp. Nhà chính trị học A.Gra – zia cho rằng: “Quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến thái độ của con người” .Bertrand Russel cho rằng: ta có thể coi quyền lực là sản phẩm của những hiệu quả có chú ý”. Theo Từ điển Bách khoa Triết học thì “Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó như kinh tế, chính trị, nhà nước, gia đình, uy tín, quyền hành, sức mạnh…”. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Gần đây nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffer cho rằng” Bạo lực, của cải, tri thức là ba dạng phổ biến và cũng là ba phương thức cơ bản để đạt được quyền lực. Trong ba loại đó, trí tuệ được coi là loại quyền lực có phẩm chất cao nhất và là phương thức cơ bản để đạt được quyền lực trong tương lai.

Tuy không đi sâu nghiên cứu vấn đề quyền lực và do đó chưa đưa ra một định nghĩa có tính chất xác định, nhưng từ góc độ duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập đến vấn đề quyền lực từ trong bản chất của nó. Đó là, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được quyền kiểm soát tư liệu sản xuất thì giai cấp đó cũng nắm được quyền điều khiển, chi phối các lĩnh vực cơ bản của xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, tư tưởng tinh thần.

Cách tiếp cận này là chìa khoá cho ta nghiên cứu vấn đề quyền lực một cách khoa học và hữu hiệu. Theo giáo sư Lưu Văn Sùng viết trong tập bài giảng chính trị học “Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội”.

2. Khái niệm quyền lực chính trị:

Quyền lực chính trị là bước phát triển cao của quyền lực xã hội. Nếu như trong xã hội, quyền lực xã hội biểu hiện rất đa dạng, phong phú như quyền lực gia đình, quyền lực kinh tế, quyền lực tôn giáo, thì quyền lực chính trị chiếm vai trò trung tâm.Vấn đề quyền lực chính trị đã được các học giả xưa nay nghiên cứu.

Thời cổ đại Aristos là người đầu tiên đề xuất tư tưởng tam quyền phân lập với việc chia quyền lực chính trị thành các quyền lập pháp, hành pháp và xét xử.Thời trung cổ, Ôguytxanh đã luận giải về nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị, trong đó ông khẳng định “Quyền lực là sở hữu chung của cả cộng đồng xã hội”.Ngược lại với quan điểm của Ôguytxanh, Tô mát ĐaCanh

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

  • nhà Thần học Kitô giáo cho rằng “quyền lực tối cao thuộc về thượng đế”. Thời kỳ cận đại, nổi lên với rất nhiều tư tưởng tiến bộ, các nhà tư tưởng

như LốcCơ, Môngtetxkiơ, Rutxô đều bàn đến khía cạnh nguồn gốc, bản chất của quyền lực chính trị.Ở Phương Đông, quyền lực chính trị được các nhà triết học Trung Quốc như Khổng tử, Mặc tử, Hàn Phi Tử…tuyệt đối hoá và xem là sức mạnh tối cao của vua – với tư cách là “thiên mệnh”- tức nhận quyền lực từ trời. Tuy vậy, ở mỗi học giả lại có cách thức đề xuất việc sử dụng quyền lực đó khác nhau. Khổng tử, đề xuất việc sử dụng quyền lực theo thuyết Chính danh. Mặc tử đề nghị sử dụng quyền lực chính trị trên tinh thần tương thân, hữu ái. Hàn Phi tử đề xướng con đường cụ thể hoá quyền lực thành pháp trị.C.Mác và Ph.Ăngghen trong quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để xây dựng học thuyết đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân đã chỉ rõ bản chất của quyền lực chính trị nói chung, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân nói riêng và con đường biện pháp để giai cấp công nhân xác lập quyền lực chính trị của mình. Những tư tưởng này được C.Mác và Ph.Ăngghen phản ánh một cách rõ ràng, khúc chiết trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Theo các ông “quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”. Mà mục đích cuối cùng của sự trấn áp ở đây là để giành và giữ địa vị thống trị về kinh tế. Điểm lại, ta có thể thấy, quyền lực chính trị có những đặc điểm sau đây: thứ nhất, là quyền lực xã hội nhằm để giải quyết lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, nhân loại; thứ hai, là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị có lợi cho một giai cấp; thứ ba, là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác”. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm quyền lực chính trị như sau: quyền lực chính trị là quyền lực của một hay của liên minh giai cấp, của một tập đoàn xã hội (hoặc của nhân dân lao động – trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội), nó nói lên khả năng thực tế của một giai cấp trong việc thực hiện ý chí của mình trong chính trị (và trong chuẩn mực pháp quyền), nhờ đó mà lợi ích khách quan của giai cấp được thực hiện hóa trong cuộc sống.

2.  Nhân tố giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị của tổ chức chính trị: Nhân tố 1: Phải có chính sách đúng: Mục tiêu được xác định rõ biểu hiện

qua các quyết sách, đường lối chính trị; các chính sách phải phù hợp với xã hội, truyền thống dân tộc và xu hướng thời đại

Nhân tố 2: Phải có hệ thống tổ chức quyền lực hoạt động hiệu quả: Phải xây dựng được một chính đảng mạnh; có một bộ máy nhà nước đủ năng lực và hoạt động hiệu quả; phát huy được tính tự chủ, độc lập của các tổ chức chính trị – xã hội.

Nhân tố 3: Phải tuyển lựa được những con người chính trị – tinh hoa thật

sự: Có cơ chế tuyển lựa người dân chủ, khoa học; có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng,

sử dụng người hiệu quả; có cơ kiểm tra, thanh lọc những đối tượng không đem

lại hiệu quả cho bộ máy.

Nhân tố 4: Có phương thức và nghệ thuật lãnh đạo: Thu phục được lòng người; có biện pháp quản lý chuẩn mực, hiệu quả (kết hợp vừa rắn vừa mềm)

XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ HỌC

II. Phần liên hệ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị

1.      Liên hệ đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng chống tha hóa quyền lực chính trị:

1.1 Hồ Chí Minh quan niệm về tha hóa quyền lực chính trị:

Suốt cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực của một nhà chính trị thiên tài trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị một cách đúng đắn, hợp lòng dân và quan tâm đặc biệt về ngăn chặn sự tha hóa quyền lực chính trị. Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã tiếp thu những nội dung cốt lõi của vấn đề quyền lực chính trị trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh không đưa ra khái niệm quyền lực chính trị theo nghĩa hàn lâm mà tập trung đề cập nhiều đến việc khẳng định chủ thể, mục đích, phương thức thực thi quyền lực chính trị. Người thường bàn tới quyền lực chính trị thông qua quyền lực nhà nước. Theo Người, quyền lực nhà

nước, quyền lực trong Nhà nước ta không phải là quyền lực của cá nhân hay của bộ máy, mà là của toàn thể nhân dân. Cơ quan nhà nước các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính quyền Nhà nước là do nhân dân bầu ra, vì vậy phải do nhân dân kiểm soát. Người khẳng định: “Có dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

Tuy không đưa ra khái niệm cụ thể, nhưng từ di sản của Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề này, bước đầu có thể nêu lên khái niệm như sau: “Tha hóa quyền lực chính trị là quá trình lạm dụng, biến quyền lực công, quyền lực của nhân dân thành ý chí, quyền lực của cá nhân hoặc nhóm người với mục đích phục vụ cho cá nhân hoặc nhóm nắm quyền lực”.

1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tha hóa quyền lực chính trị * Về nguyên nhân (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Ngay từ trước khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã luôn cảnh báo về sự suy thoái của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân khi giành được chính quyền và nắm trong tay quyền lực Nhà nước: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Điều này cho thấy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tha hóa quyền lực chính trị mà Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa cá nhân. Nếu mắc phải bệnh cá nhân chủ nghĩa thì “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết”, ngại gian khổ, mất đoàn kết, vô kỷ luật, sa vào hủ hóa dẫn đến “không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là “vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ”. Căn nguyên làm nảy sinh và nuôi dưỡng chủ nghĩa cá nhân là bản chất phản động của xã hội phong kiến, thuộc địa nửa phong kiến tồn tại lâu dài trên đất nước ta. Do vậy, chủ nghĩa cá nhân là tiêu chí tiên quyết thể hiện bản chất của xã hội cũ trái ngược với chủ nghĩa tập thể vốn là nền tảng của việc xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.

Tha hóa quyền lực chính trị là kết quả của sự tha hóa về đạo đức cách mạng. Quyền lực chính trị chân chính là quyền lực được giành, giữ và thực thi thuận theo lòng dân, lấy nhân dân làm đối tượng, mục đích để hướng tới phục vụ. Đó cũng chính là tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng. Nhân dân là động lực lãnh đạo của Đảng. Có nhân dân, Đảng mới có quyền lãnh đạo. Mục đích của Đảng trong xây dựng và chỉnh đốn là để được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, khi có trong tay quyền lực, người cán bộ, đảng viên dễ quên đi phục vụ nhân dân như một tiêu chuẩn quan trọng của đạo đức cách mạng, như mục tiêu hướng đến của thực thi quyền lực.

Từ đó, người cán bộ, đảng viên phải rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Vì “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”.

* Hậu quả

Một là, hỏng cán bộ, mất cán bộ – cái gốc của mọi công việc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Người khẳng định cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về tư tưởng chính trị, vừa hồng, vừa chuyên không chỉ dừng lại ở mong mỏi mà còn chiếm vị trí rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh.

Hai là, mất niềm tin của nhân dân – chủ thể của quyền lực chính trị, nền tảng của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân… Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”. Đảng ta ra đời, tồn tại, phát triển, vững mạnh đều liên quan mật thiết đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Suy thoái đạo đức là khởi điểm cho mọi suy thoái.

Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần phải chống cho được sự tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới mạnh mẽ phương thức cầm quyền của Đảng. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Vì vậy, phải xác định cầm quyền do dân và vì dân. Đảng phải củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng phải nhận thức được những chỗ mạnh và chỗ yếu của mình, mạnh thì phát huy, yếu thì vạch rõ nguyên nhân, tìm mọi cách khắc phục, tuyệt đối không được giấu giếm khuyết điểm. Bởi vì một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, Đảng phải “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Theo Hồ Chí Minh, Đảng mạnh hay yếu là ở dân, Đảng anh hùng vì có nhân dân anh hùng. Đảng có mạnh thì mới đủ uy tín và khả năng thu hút, tập hợp nhân dân làm cách mạng. Muốn mạnh, Đảng phải bao gồm những phần tử ưu tú nhất, giác ngộ nhất, có kỷ luật nhất và có tổ chức chặt chẽ của giai cấp và nhân dân; nêu cao đạo đức cách mạng; có năng lực trí tuệ; biết tổ chức, giáo dục, học hỏi, đoàn kết nhân dân. Trong mối quan hệ với nhân dân nảy sinh yêu cầu đòi hỏi Đảng phải “mạnh”, phải vươn lên những giá trị đạo đức, văn minh để nhân dân tin theo và ủng hộ, giúp đỡ.

Ba là, nguy cơ sụp đổ chế độ chính trị. Việc kiểm soát quyền lực trước tiên là để bảo đảm cho quyền lực luôn thuộc về đúng chủ nhân của nó, tức là thuộc về nhân dân, được sử dụng đúng mục đích, không bị lợi dụng,lạm quyền. Khi quyền lực bị lạm dụng thì tất yếu sẽ tha hóa bộ máy cầm quyền và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tha hóa đạo đức xã hội.

Sự tha hóa quyền lực tất yếu sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị. Nếu sự tha hóa ấy không dừng lại và lành mạnh hóa thì sụp đổ là không thể tránh. Sự sụp đổ ấy chính là tự đổ, không phải do ai phá và cũng không ai cản nổi.

1.3. Giải pháp phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị

* Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tha hóa quyền lực chính trị là sư suy thoái đạo đức cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân của cán bộ. Do vậy, giáo dục đạo đức cách mạng sao cho người cán bộ, đảng viên là người cách mạng chân chính, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, là giải pháp quan trọng trước tiên. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung tư tưởng đạo đức cách mạng tập trung, nổi bật ở luận điểm: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn quan tâm chăm lo xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; luôn coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng, Người ví đạo đức cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Theo Người, điều kiện tiên quyết để người cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ là phải có đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Vì vậy, “Những người Cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới” và “Phải nhớ mình là công bộc của dân, ra làm việc là để gánh vác việc chung của dân, mọi chủ trương, chính sách phải lấy lợi ích của Đảng, của dân làm gốc” vì “Đảng ta là Đảng chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, ngoài ra không còn lợi ích nào khác”.

* Kiểm soát quyền lực:

Tha hóa quyền lực sẽ khó diễn ra trong một cơ chế mà quyền lực được kiểm soát tốt. Hồ Chí Minh biết điều đó và chủ trương vừa xây dựng sự kiểm soát nội bộ trong hệ thống chính trị, vừa tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ kiểm soát việc thực thi quyền lực.

Những vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập về kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, đảng viên có chức có quyền đều là những vấn đề nóng liên quan mật thiết đến vận mệnh của Đảng và của dân tộc. Theo Người: “Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội… không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng. Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa”. Như vậy, đối với Người, nhận diện đúng những biểu hiện tha hóa quyền lực và nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó là một bước quan trọng để tìm ra những phương cách hữu hiệu trong kiểm soát quyền lực và phòng, chống tha hóa quyền lực. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Thực tế cho thấy, quyền lực có thể bị tha hóa bên cạnh tác động của nhân tố khách quan, thì còn phụ thuộc rất nhiều vào việc chủ thể nắm quyền lực – đội ngũ cán bộ, đảng viên mang trong mình tư chất như thế nào. Là đại diện của dân, do dân cử ra, thừa ủy quyền của dân, nên đội ngũ cán bộ chỉ là “công bộc” của dân. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà được nhân dân ủy quyền, giao quyền, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Vì vậy, nhân dân có quyền đòi hỏi và có nhu cầu tự nhiên, và tất nhiên là phải kiểm soát được quyền lực mà mình đã giao để làm sao cho quyền đó không bị biến dạng, không bị tha hóa, không bị lạm quyền, lộng quyền, khiến cho quyền lực đó phục vụ mình, trong phạm vi, khuôn khổ mà mình giao (Hiến pháp, pháp luật).

Trong điều kiện đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, một bộ phận cán bộ, đảng viên không giữ được phẩm chất, bản lĩnh và ý chí dẫn đến lợi dụng chức quyền để trục lợi, lạm quyền, lộng quyền, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cùng những tiêu cực khác. Người đã nghiêm khắc phê phán những cán bộ vừa mới nắm giữ chức quyền đã vác mặt quan cách mạng. Người không chỉ bắt đúng bệnh, đưa ra đúng phác đồ điều trị, mà còn kê các phương thuốc đặc trị chứng bệnh suy thoái, tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên có chức có quyền.

Kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ thống chính trị diễn ra dưới nhiều hình thức. Bên cạnh các cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý, kỷ luật, thực thi pháp luật thì việc kiểm soát quyền lực từ chỗ phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình của mỗi cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh rất xem trọng.

Trong đánh giá tư cách của một người, một Đảng, Hồ Chí Minh thường xét qua ba mối quan hệ: Với mình, với người, với công việc. Tự phê bình là tự xét chính mình, phê bình là xét về người, cùng hướng đến thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ Đảng giao. Mục đích của tự phê bình và phê bình là “xét” ưu điểm, khuyết điểm của chính mình và của người khác để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Tự phê bình và phê bình là tự soi xét lại mình và nhìn nhận người khác để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói: Thang thuốc hay nhất là thiết thực tự phê bình và phê bình. “Chúng ta phải ráo riết tự phê bình và phê bình để giúp nhau chữa hết những bệnh ấy. Có thế thì Đảng mới chóng phát triển”.

Muốn tự phê bình và phê bình hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có phương pháp và thái độ cho đúng. Tiến hành tự phê bình và phê bình phải thường xuyên như rửa mặt hàng ngày. Mỗi ngày mỗi “rửa” khuyết điểm, “được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh tật mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”; phải thành khẩn, không được “giấu bệnh, sợ thuốc”; phải trung thực, không “đặt điều”, “không thêm bớt”; phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang; “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; tự phê bình và phê bình “không phải để công kích, để nói xấu”, “chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm”.

* Nghiêm trị những biểu hiện tha hóa quyền lực.

Điều cần thiết đối với một đảng tiền phong trong lãnh đạo là xác định một cách rõ ràng, dứt khoát và nghiêm chỉnh thực hiện kỷ luật. Hồ Chí Minh xem xây dựng, rèn luyện và củng cố kỷ luật là một trong những nội dung quan trọng của xây dựng hệ thống chính trị, là căn cứ để khép cán bộ, đảng viên vào khuôn phép, tránh rơi vào tình trạng lung tung, bừa bãi. Quy định đó là Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước ban hành điều chỉnh hành vi không được làm của cán bộ, đảng viên, trong đó có tha hóa quyền lực. Chính vì tha hóa quyền lực chính trị dẫn đến hậu quả vô cùng nguy hiểm nên đối với những cán bộ vi phạm cần phải bị nghiêm trị. Khi phát hiện vi phạm phải xử lý kiên quyết, minh bạch, bất kể là đối tượng nào. Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc xử lý một số cán bộ lãnh đạo nắm quyền ở các cơ quan Nhà nước lạm dụng quyền lực mà phạm phải những lỗi lầm. Người nhắc nhở: “Những lỗi lầm chính là: Trái phép, Cậy thế, Hủ hoá, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo… Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm, thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa”. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

2.      Liên hệ đến vấn đề tha hóa quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay.Đảng và nhà nước đã và đang làm gì để phòng chống tha hóa quyền lực chính trị:

2.1. Vấn đề tha hóa quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay:

Không ngẫu nhiên mà mới đây Đảng ta đã chính thức đề cập vấn đề phòng, chống tha hóa quyền lực trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Vì những năm gần đây, tình trạng tha hóa quyền lực trở thành một trong những vấn đề nhức nhối, nóng bỏng, ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng và chế độ ta.

Theo nhận định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, hầu hết các vụ việc cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đều có chung hành vi vi phạm nguyên tắc dân chủ, vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy. Trong tổng số gần 40 cuộc kiểm tra của UBKT Trung ương đối với các trường hợp khi có dấu hiệu vi phạm, số cuộc kiểm tra phát hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ chiếm 61%, vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy chiếm 66%. Số tổ chức đảng, đảng viên bị thi hành kỷ luật do vi phạm quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng chiếm 74% tổng số tổ chức đảng và chiếm 56% tổng số đảng viên, hầu hết có trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương, đơn vị.

Bản chất của sự vi phạm này là xa rời những quy định, chế định căn cốt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành; thực hiện dân chủ hình thức, dân chủ giả tạo để lấy tập thể làm “bình phong” che chắn, lấp liếm nhằm “ý chí hóa” cá nhân người lãnh đạo; thậm chí không ít người đứng đầu cấp ủy đã tìm mọi cách để lèo lái, thậm chí áp đặt các thành viên cấp ủy phải tuân theo, chấp hành ý kiến chỉ đạo của mình. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Đáng nói hơn, nếu như trước đây, sự tha hóa quyền lực thường xảy ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức ở cấp cơ sở, cấp huyện, thì những năm gần đây, sự tha hóa quyền lực xảy ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ nắm giữ quyền lực lớn như bộ trưởng, thứ trưởng, tổng cục trưởng; bí thư, chủ tịch tỉnh, thành phố và nhiều cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Hơn 4 năm qua, đã có gần 100 cán bộ cao cấp bị kỷ luật Đảng và xử lý hình sự, trong đó có 3 Ủy viên Bộ Chính trị và nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, 21 Ủy viên Trung ương Đảng và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 24 sĩ quan cấp tướng.

2.2 Hành động của Đảng, Nhà nước:

Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực, khả thi và hành động quyết liệt nhằm phòng, chống tham nhũng, chấn chỉnh, ngăn chặn các hiện tượng tha hóa quyền lực xảy ra trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và bước đầu mang lại hiệu quả, được nhân dân ghi nhận và dư luận quốc tế đánh giá khá tích cực.

Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng, hoàn thiện không ngừng những cơ chế, chính sách nhằm kiểm soát quyền lực chính trị dưới các cấp độ, hình thức khác nhau.Trong điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng xác định cơ chế tổng thể quản lý đất nước, quản lý xã hội là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây cũng đồng thời là sự xác định vị trí, vai trò các yếu tố trong hệ thống quyền lực chính trị của đất nước, của chế độ. Trong hệ thống đó, Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là đảng chính trị duy nhất cầm quyền, đồng thời cũng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013), là yếu tố quyền lực chính trị quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Vì thế, việc kiểm soát quyền lực chính trị của Đảng, không chỉ là một nội dung, giải pháp quan trọng, góp phần bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn là điều kiện hàng đầu bảo đảm cho sự kiểm soát một cách hiệu quả quyền lực chính trị đối với Nhà nước và xã hội nói chung, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ.

“Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt” đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong kiểm soát quyền lực của Đảng và hệ thống chính trị nói chung. (Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị)

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về ý thức, trách nhiệm chính trị trong việc thực thi các trách nhiệm công tác của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về tổ chức đã tập trung kiện toàn, “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; năng lực, chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên được nâng cao. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng “được tăng cường, có nhiều đổi mới, thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương”. Công tác phòng, chống tham nhũng “được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt,… với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm”, được “nhân dân đồng tình, ủng hộ”, đã từng bước “kiềm chế, ngăn chặn” tham nhũng. Trong nhiệm kỳ khóa XII đã thi hành kỷ luật gần 120 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý là thể hiện trực tiếp, rõ ràng về sự quyết liệt, quyết tâm chính trị cao của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, tăng cường kỷ luật nghiêm minh trong Đảng và hệ thống chính trị.

Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng “giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội”. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng được đổi mới; vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng được chú trọng.

Hiệu quả tổng hợp của những kết quả trên là những thành tựu quan trọng, nhiều dấn ấn nổi bật của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian qua. Trong điều kiện thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực của dịch bệnh và thiên tai, song nền kinh tế nước ta vẫn phát triển, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được bảo đảm cơ bản, uy tín của đất nước trên trường quốc tế được nâng lên, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Những thành tựu quan trọng đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó có những đổi mới tích cực trong kiểm soát quyền soát quyền lực chính trị góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.


Trên đây là tiểu luận môn Chính trị học đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minhvề phòng, chống tha hóa quyền lực chính trị, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Contact Me on Zalo