Tải miễn phí bài Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng trên chuyên mục tiểu luận Tư tưởng Hồ CHí Minh.
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Tư tưởng Hồ CHí Minh nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng
Với tư cách người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định một cách rõ ràng và dứt khoát rằng, trong suốt tiến trình công cuộc đổi mới này, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng không chỉ có nghĩa đây là nhiệm vụ mang tầm quan trọng hàng đầu, mà còn có nghĩa là nhiệm vụ đóng vai trò chi phối, quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới. Để xây dựng Đảng ta thành một Đảng mang tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, tầm phẩm chất, tầm năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn cần có, đủ đảm đương được vai trò lãnh đạo và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước, thành một Đảng thực sự “vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức”, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định, Đảng “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”(1). Quan điểm nhất quán này của Đảng ta – quan điểm gắn kết xây đựng Đảng với chỉnh đốn Đảng – có cội nguồn tư tưởng từ tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Thật vậy, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người đầu tiên đưa ra quan điểm gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng, mà còn là người luôn kiên định, luôn giữ vững quan điểm này. Với Người, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng không chỉ là một quy luật tất yếu, mà còn là sự vận động và phát triển của Đảng trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Với Người, xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới để Đảng luôn tồn tại với tư cách người lãnh đạo cách mạng, luôn phát triển với tư cách
Đảng cầm quyền. Do vậy, với Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt, mang tầm chiến lược, mà còn là công việc thường xuyên của Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng, bởi “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(2).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tầu không có bàn chỉ nam” và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”, “chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(3). Do vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh – người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với “lý luận cách mạng tiền phong” mà có nó, “Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trước hết phải dựa trên nguyên tắc nền tảng là nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin “làm cốt”. Sở dĩ xây dựng và chỉnh đốn Đảng đòi hỏi chúng ta phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” là bởi, đối với sự vận động và phát triển của Đảng ta, chủ nghĩa Mác – Lênin, theo Hồ Chí Minh, không chỉ là “lý luận cách mạng tiền phong”, là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng”, mà còn là “học thuyết dạt dào sức sống”, có khả năng làm cho Đảng ta “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc” và giúp cho Đảng ta “khơi nguồn sức mạnh” của chính mình, “khơi nguồn lực lượng và sức mạnh sáng tạo của nhân dân” để giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo(4). Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thực sự trở thành một Đảng cách mạng tiên phong, “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam” không có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ của C.Mác, của Ph. Ăngghen, của V.I.Lênin, mà như Hồ Chí Minh đã nói, là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh nghiệm của các nước, các Đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; là phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, hiểu rõ phong trào cách mạng Việt Nam để vận dụng sáng tạo và hơn nữa, còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, xây dựng và chỉnh đốn Đảng còn đòi hỏi Đảng phải luôn kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội – “con đường chung của thời đại, của lịch sử” – trên đất nước ta; kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; kiên định sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển và thực hành dân chủ rộng rãi với tư cách “cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(5); xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử lớn lao đó, trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết từ bỏ những gì đã trở nên lạc hậu, lỗi thời hay sai trái để tạo ra những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình – Người nhấn mạnh – là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(6).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân; Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là chủ; không chỉ có nước mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc, bởi cái gốc này chính là cái đem lại sinh lực vô tận cho Đảng; Đảng cầm quyền nhưng Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc, của nhân dân. Do vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng luôn đòi hỏi Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí” để Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng nhân dân và “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(7).
Với những nhận thức sâu sắc đó, ngay từ khi đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(8). Kể từ đó, trong suốt những năm tháng lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạnh Việt Nam, Người đã đưa ra nhiều quan điểm đúng đắn để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhận thức một cách đúng đắn rằng, Đảng phải “giành được địa vị lãnh đạo” và luôn củng cố địa vị lãnh đạo ấy bằng cách thường xuyên kết hợp xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, vững mạnh, để luôn được quần chúng thừa nhận Đảng là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”.
Không chỉ thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, Đảng chỉ có thể trong sạch, vững mạnh, chỉ trở thành đội tiên phong và giành được vai trò lãnh đạo cách mạng, khi gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng trở thành một nguyên tắc, một nhu cầu bức thiết trong suốt quá trình vận động và phát triển của Đảng với tư cách người lãnh đạo cách mạng và mỗi khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới thì đây là “việc cần phải làm trước tiên”(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng không biết mệt mỏi của mình, trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định quan điểm gắn việc xây dựng đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam với việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam;xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh và trí tuệ Đảng phải gắn liền với chỉnh đốn Đảng, thường xuyên nâng cao sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Với quan điểm nhất quán này, với nhận thức sâu sắc rằng, đoàn kết là cái làm nên sức mạnh to lớn của Đảng, là cội nguồn dẫn đến mọi thành công của Đảng, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân và với tư cách là hiện thân cho sự đoàn kết trong Đảng, mỗi khi “nói về Đảng”, về sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói về việc giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Thấu hiểu hơn ai hết truyền thống đoàn kết của Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập, nhận thức sâu sắc hơn ai hết về vai trò cực kỳ quan trọng của sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, Người đã khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” và chính là “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Với khẳng định này, với mong muốn đã trở thành khát vọng – mong muốn việc giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng cần phải trở thành truyền thống của Đảng ta, Người yêu cầu Đảng ta, từ Trung ương đến các chi bộ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên thường, đều “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(9).
Nhận thức sâu sắc truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, với lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là quan niệm của V.I.Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, làm cho toàn Đảng trở thành một khối đoàn kết vững chắc và mọi đảng viên trong Đảng đều phải có ý thức giữ gìn, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất ấy cũng là một nguyên tắc vận động và phát triển của Đảng cầm quyền. Với khẳng định này, Người đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân và coi việc xây dựng sự đoàn kết trong Đảng là nòng cốt để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Người coi sự thống nhất về đường lối, về quan điểm là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về hành động trong toàn Đảng nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Không chỉ thế, Người còn cho rằng, trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, khi tình hình càng phức tạp, nhiệm vụ càng nặng nề thì khi đó, “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”, bởi sự đoàn kết thống nhất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng(10).
Gắn kết xây dựng với chỉnh đốn Đảng để tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong toàn
Đảng, theo Hồ Chí Minh, trước hết Đảng phải lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức của Đảng để tạo nên trong toàn Đảng sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động và làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(12), vừa phát huy được sức mạnh của mỗi đảng viên, vừa phát huy được sức mạnh của toàn Đảng; phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để mọi cán bộ, đảng viên đều có thể tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề hệ trọng của Đảng; thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách với tư cách nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và đặc biệt, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tư cách nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, quy luật phát triển của Đảng. Nói về điều này, Người đã nhấn mạnh rằng, “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”(13). Rằng, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(14).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Đặc biệt nhấn mạnh vai trò lớn lao của việc thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình trong sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng nhằm tạo ra sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và coi đó là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng, là phương thức không những phải “luôn luôn dùng”, mà còn phải “khéo dùng”, phương thức tốt nhất, hiệu quả nhất và là “vũ khí sắc bén” để giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói về công tác này. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình phải trở thành công việc hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, từ người lãnh đạo đến đảng viên thường, từ cấp trên đến cấp dưới đều phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện “tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Làm được như thế thì theo Người, “trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng”(14). Với Người, tự phê bình và phê bình không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng, mà còn cần phải được mở rộng đến mọi tầng lớp nhân dân lao động. Để tiến bộ, mọi cán bộ, đảng viên đều phải biết “lắng nghe ý kiến của quần chúng”, “phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”, đồng thời phải thường xuyên nâng cao tính tự giác và luôn giữ thái độ trung thực, đúng mực trong tự phê bình và phê bình, phải “biết thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”(15). Trong tự phê bình và phê bình, theo Người, không được cá nhân chủ nghĩa, không được phép mưu cầu lợi ích cá nhân, không được kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại, phê bình người khác nhưng lại không muốn người khác phê bình mình, không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không nghiêm túc, không thật thà, “sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín”. Tự phê bình và phê bình, Người nhấn mạnh, không phải chủ yếu là để xử lý, mà cái chính là để mỗi cán bộ, đảng viên đều nhận thức rõ mặt tốt mà phát huy, mặt còn yếu kém mà khắc phục, sửa chữa, nhất là để cùng nhau tiến bộ và đặc biệt, trong tự phê bình và phê bình phải lấy “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” làm phương châm chủ đạo.
Gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt nhấn mạnh vai trò hết sức quan trọng của việc giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, mà còn khẳng định vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng. Coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, đạo đức cách mạng là cơ sở nền tảng của Đảng cầm quyền, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đến việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Với quan niệm đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời” đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, “ra sức làm việc” cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình; “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc; “ra sức học tập” chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình để cùng tiến bộ, khi gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng trên nền tảng đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(16). Rằng, sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang nhưng cũng vô cùng khó khăn, gian khổ mà Đảng là người lãnh đạo, do vậy, “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(17).
Với quan niệm như vậy về vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, với nhận thức sâu sắc rằng “một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực hành đạo đức cách mạng mà bản thân Người là một tấm gương ngời sáng. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho chúng ta, khi nói về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(18).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Đảng cầm quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ những người kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng. Coi việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, Người luôn yêu cầu Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người cách mạng vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Với tư cách người cộng sản quốc tế, luôn quan tâm đến phong trào cộng sản thế giới, người suốt đời phụng sự không chỉ cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, mà cả cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng ta và bản thân Người cũng thế, ra sức hoạt động và góp phần đắc lực vào việc xây dựng khối đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản một cách “có lý có tình” và coi đó cũng là một nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng, gắn xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Như vậy, có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, sự gắn kết giữa xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng là để xây dựng Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và của dân tộc, một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng vì mục tiêu lâu dài ấy, trước hết phải làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết thống nhất trên cơ sở tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ rộng rãi, phải làm cho Đảng trở thành một Đảng có đạo đức, có trí tuệ và hơn nữa, phải làm cho Đảng luôn là một Đảng cầm quyền, luôn xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, thiết lập “quan hệ máu thịt” với nhân dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí”; đồng thời phải chăm lo đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau và góp phần đắc lực vào việc xây dựng khối đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.
Không chỉ thế, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh phải gắn bó hữu cơ với “chỉnh đốn lại Đảng”. Chỉnh đốn Đảng là cơ sở để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và đối với một Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, chỉnh đốn Đảng cũng là “việc cần phải làm trước tiên”. Chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi chi bộ đều phải ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉnh đốn Đảng cũng là để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; để Đảng luôn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng, vai trò tiền phong gương mẫu và phát huy được sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ của mình; để Đảng không trở thành quan liêu, xa dân, thoái hoá, biến chất; để củng cố và nâng cao lòng tin của dân với Đảng. Chỉnh đốn Đảng không có nghĩa là Đảng phạm phải những sai lầm, thiếu sót nào đó cần phải sửa chữa, khắc phục, chỉnh đốn lại, bởi một Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng không thể tránh khỏi thiếu sót, sai lầm. Chỉnh đốn lại Đảng cái chính là để nâng chất lượng, năng lực lãnh đạo của Đảng lên một tầm cao mới, đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, nhất là khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI TƯ CÁCH THƯỚC ĐO TRÌNH ĐỘ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
NGUYỄN MINH HOÀN (*)
Tiến bộ xã hội là một phạm trù mang tính lịch sử. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử nhất định, vào địa vị xã hội và vào trình độ nhận thức, có người quan niệm sự vận động của lịch sử diễn ra như thế này, có người lại quan niệm sự vận động của lịch sử diễn ra như thế khác. Mặc dù vậy, trong lịch sử, khuynh hướng vận động của xã hội, dù được quan niệm là diễn ra theo hướng nào đi chăng nữa, thì phần đông các nhà tư tưởng đều cho rằng, khuynh hướng biến đổi của xã hội nói chung thường bắt nguồn từ sự xung đột giữa người với người, trước hết trong những lĩnh vực kinh tế – xã hội (đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và địa vị xã hội). Rằng, việc giải quyết mâu thuẫn lợi ích trong xã hội ngày càng công bằng hơn chính là nguồn gốc, là động lực cho sự vận động và phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội. Song, công bằng xã hội còn là thước đo trình độ của tiến bộ xã hội trong tiến trình vận động, phát triển của lịch sử và được thể hiện ra ở trình độ giải phóng con người.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tuy không để lại một tác phẩm nào chuyên bàn về tiến bộ xã hội, nhưng với quan niệm duy vật về lịch sử, về thực chất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trực tiếp bàn về tiến bộ xã hội và từ đó, đề xuất quan niệm về tiến bộ xã hội trong toàn bộ di sản lý luận của mình trên cơ sở vạch rõ hạn chế của những quan điểm trước đó về tiến bộ xã hội. Một trong những hạn chế đó, theo các ông, là ở chỗ, do bị bó hẹp trong điều kiện lịch sử cụ thể và lợi ích giai cấp, các quan niệm ấy đã không thấy được vai trò quyết định của lĩnh vực sản xuất vật chất đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Các tác giả của những quan điểm đó hầu như chỉ đi tìm nguyên nhân vận động của lịch sử xã hội từ những lực lượng phi vật chất (mà thường thuộc về lĩnh vực ý thức xã hội). Vì thế, những tiêu chuẩn được xác định để đánh giá sự tiến bộ của xã hội trong những quan điểm ấy cũng chỉ là sự cụ thể hoá ý thức xã hội bằng những tiêu chuẩn, như sự phát triển của ý thức đạo đức, sự phát triển ý thức về tự do, sự phát triển của lý tính – tư duy, sự phát triển ý thức pháp quyền, sự phát triển ý niệm tuyệt đối,…
Ngược lại với những quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen coi lịch sử xã hội là một quá trình phát triển theo quy luật khách quan, nội tại và tất yếu, tương tự như quá trình phát triển trong thế giới tự nhiên. C.Mác viết: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”[i], mà quá trình vận động tiến lên của các hình thái kinh tế – xã hội ấy, suy cho cùng, đều bị quy định bởi sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Quá trình vận động và phát triển của xã hội diễn ra hết sức phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn, trải qua những bước quanh co, kể cả những bước thụt lùi. Mặc dầu vậy, đó không bao giờ là một quá trình vận động vô hướng, mà luôn là một quá trình vận động theohướng tiến bộ, tức là theo hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Nói cách khác, sự vận động của xã hội tuy diễn ra theo nhiều hướng khác nhau, hay nói như C.Mác, trong sự vận động của xã hội, “người ta luôn thấy có những trường hợp thoái bộ và loanh quanh”[ii], hoặc như V.I.Lênin đã nói, nếu “cho rằng lịch sử thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng, không có – đôi khi – những bước nhảy lùi lớn, thì là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận”[iii], nhưng sự vận động ấy bao giờ cũng diễn ra theohướng chủ đạo là đi đến tiến bộ, theo hướng là một hình thái kinh tế – xã hội này, sau một thời gian tồn tại và phát triển thì đến một độ nào đó, cuối cùng, cũng sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất. C.Mác viết: “Về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế – xã hội”[iv]
Đương nhiên, không thể hiểu luận điểm này của C.Mác một cách cứng nhắc, theo nghĩa là sự vận động, phát triển của bất kỳ quốc gia nào, khu vực nào trên thế giới cũng đều phải lần lượt trải qua các phương thức sản xuất đó. Bởi lẽ, như đã nói trên, lịch sử thế giới tiến lên không phải một cách đều đặn, bằng phẳng, không có những bước nhảy lớn, kể cả những bước nhảy lùi lại phía sau lẫn những bước nhảy vọt về phía trước. Ở đây, trong khuôn khổ một Lời tựa và với mục đích giới thiệu một cách vắn tắt nhất, cô đọng nhất những kết quả nghiên cứu quan trọng nhất của mình, C.Mác không đề cập một cách chi tiết đến sự vận động cụ thể đã từng xảy ra của xã hội ở nơi này, nơi kia, vào lúc này, lúc khác, mà xem xét sự vận động ấy trên những nét lớn, một cách khái quát, hay nói như C.Mác, “về đại thể”, toàn bộ lịch sử vận động, phát triển của nhân loại theo hướng chủ đạo, bỏ qua những cái ngẫu nhiên hay những bước đi chệch tạm thời khỏi hướng chủ đạo ấy. Thứ nữa, về những phương thức sản xuất cụ thể mà, theo C.Mác, nhân loại đã trải qua, C.Mác cũng nói một cách rất thận trọng là “có thể coi…”, chứ không phải dưới dạng một khẳng định dứt khoát, nghĩa là C.Mác vẫn dành chỗ cho các công trình nghiên cứu về sau tiếp tục cụ thể hoá, bổ sung, hoàn chỉnh, làm chính xác thêm. Mặc dầu vậy, sự khái quát của C.Mác về lịch sử vận động, phát triển theo hướng đi lên của xã hội, tư tưởng cơ bản của C.Mác về tiến bộ xã hội, coi tiến bộ xã hội là quá trình thay thế một hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất cho đến nay vẫn hoàn toàn giữ nguyên giá trị. Như vậy, từ sự khái quát của C.Mác về lịch sử vận động, phát triển theo hướng đi lên của xã hội, có thể khẳng định rằng, tiến bộ xã hội là quá trình vận động của xã hội theo hướng một hình thái kinh tế – xã hội này, sau một thời gian tồn tại, phát triển, đến một độ nào đó, cuối cùng, sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Vậy cái gì là tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội?
Trên cơ sở khẳng định nguồn gốc vật chất quyết định sự vận động và phát triển của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau để phân chia trình độ của tiến bộ xã hội ở từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Bởi lẽ, đó chính là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội thông qua sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong suốt tiến trình lịch sử nhân loại. Nói cách khác, theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất chính là nền tảng của mọi tiến bộ xã hội trong suốt lịch sử, kể từ khi xã hội có giai cấp. Ph.Ăngghen viết: “Toàn bộ sự phát triển của xã hội loài người sau khi thoát khỏi giai đoạn dã man của động vật, đều bắt đầu từ ngày mà lao động gia đình sản xuất ra được nhiều sản phẩm hơn số cần thiết để nuôi sống nó, từ ngày mà một phần lao động có thể được dùng không chỉ để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà còn để sản xuất những tư liệu sản xuất nữa. Số sản phẩm lao động dư ra ngoài cái chi phí để duy trì lao động, và việc hình thành và phát triển một quỹ sản xuất và dự trữ xã hội nhờ vào số dư ấy, trước kia và hiện nay vẫn là những cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, chính trị và tinh thần (chúng tôi nhấn mạnh – N.M.H)”(5).
Song, theo quan điểm của Ph.Ăngghen, “trong lịch sử từ trước đến nay cái quỹ đó vẫn là sở hữu của một giai cấp có đặc quyền, cùng với cái quỹ đó giai cấp này cũng nắm được sự thống trị chính trị và sự lãnh đạo về tinh thần”(6). Vì vậy, chưa thể coi sự phát triển đơn thuần của lực lượng sản xuất, hay nói đúng hơn, sự phát triển đơn thuần của tư liệu sản xuất, là tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thái kinh tế – xã hội chỉ là tiêu chuẩn cơ bản nhất để so sánh sự phát triển về mặt kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội này với một hình thái kinh tế – xã hội khác. Bởi lẽ, trong xã hội có giai cấp, những thành tựu to lớn của sự phát triển lực lượng sản xuất được coi là cơ sở của nền văn minh vẫn chỉ là kết quả được thực hiện trong sự bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác và vì thế, cái “phúc lợi của giai cấp này lại là tai hoạ của giai cấp kia”. C.Mác viết: “Công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu; công việc của anh ta làm càng phức tạp thì bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới tự nhiên”(7).
Như vậy, ngay cả khi lực lượng sản xuất có đạt đến trình độ phát triển cao, nhưng nếu quan hệ giữa người và người vẫn là quan hệ bóc lột, bất công, bất bình đẳng, thì sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn mới chỉ dừng lại ở sự gia tăng và ngày càng hoàn thiện của tư liệu sản xuất, chứ chưa phải là sự phát triển của con người với tư cách một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất. Thêm nữa, nói tới xã hội, trước hết là nói tới quan hệ giữa người với người, bởi xã hội, dưới bất kỳ hình thức nào, như C.Mác đã nhận xét, đều là “sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Vì vậy, dù tư liệu sản xuất có tăng lên bao nhiêu chăng nữa, ngày càng hiện đại thêm bao nhiêu đi chăng nữa mà người lao động vẫn còn phải chịu cảnh bị bóc lột, áp bức, bất công, lao động của anh ta, nói như C.Mác, vẫn chưa phải là lao động tự nguyện, mà là lao động bị cưỡng bức, không phải là sự thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ là một phương tiện để thoả mãn nhu cầu khác(8), nghĩa là con người vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn, thì cũng chưa thể nói xã hội đã đạt đến đỉnh cao của sự tiến bộ. Nói cách khác, để cho những thành quả phát triển của lực lượng sản xuất với tư cách sản phẩm sáng tạo của người lao động cuối cùng phải trở thành phương tiện thoả mãn nhu cầu lao động và thông qua đó, phát triển ngày càng toàn diện chính phẩm giá của người lao động, thì trước hết, cần phải xoá bỏ sự áp bức, bất công của chế độ xã hội người bóc lột người, xây dựng một chế độ xã hội công bằng, làm cho “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do”(9). Đây chính là mục tiêu và mô hình xã hội công bằng và tiến bộ theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Coi tiến bộ xã hội là sự kế thừa và phát triển toàn bộ những thành tựu vật chất và tinh thần mà nhân loại đã sáng tạo ra trong suốt quá trình lịch sử, khi đưa ra mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và tiến bộ hơn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng, chính những nền tảng vật chất do xã hội tư sản tạo ra là cơ sở vật chất cho sự nghiệp xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn, bình đẳng hơn, vì mục tiêu giải phóng và phát triển ngày càng toàn diện con người. C.Mác viết: “Thời kỳ tư sản của lịch sử có sứ mệnh tạo ra cơ sở vật chất cho một thế giới mới: một mặt, phát triển những sự giao dịch thế giới dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả loài người, cũng như phát triển những phương tiện của sự giao dịch đó; mặt khác, phát triển các lực lượng sản xuất của con người và đảm bảo biến nền sản xuất vật chất thành sự thống trị đối với các lực lượng của thiên nhiên nhờ vào khoa học. Công nghiệp và thương nghiệp tư sản đang tạo ra những điều kiện vật chất ấy của thế giới mới”(10), và “chỉ riêng những điều kiện này mới có thể hình thành cái cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội cao hơn, một hình thái xã hội mà nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do”(11).
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thích rõ tại sao chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được những thành quả phát triển cao của lực lượng sản xuất nhưng vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiến bộ xã hội vì sự phát triển con người. Theo các ông, mặc dù giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử, nhưng xã hội tư sản hiện đại, được sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp; nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi(12). Từ đó, các ông đã đi đến khẳng định rằng, những nền tảng vật chất to lớn của xã hội tư sản sẽ chỉ có thể thực sự trở thành cơ sở hiện thực cho sự hình thành một xã hội công bằng, trong đó con người được phát triển đầy đủ, tự do, “sau khi cuộc cách mạng xã hội vĩ đại nắm được những thành tựu của thời đại tư sản, nắm được thị trường thế giới và các lực lượng sản xuất hiện đại, và làm cho những cái ấy phải chịu sự kiểm soát chung của những dân tộc tiên tiến nhất, – chỉ khi ấy, sự tiến bộ của loài người mới không còn giống như cái tượng thần dị giáo ghê tởm không muốn uống rượu trường sinh một cách nào khác ngoài cái cách uống bằng sọ của người bị giết”(13).
Bên cạnh việc khẳng định vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với tiến bộ xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định vai trò sáng tạo và khả năng làm chủ của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung trong lịch sử, kể cả trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa, khi trình độ phát triển của khoa học hiện đại tưởng chừng như là cái quyết định duy nhất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác viết: “Không phải bằng lời nói mà bằng việc làm, người công nhân đã chứng minh rằng nền sản xuất với quy mô lớn và được tiến hành phù hợp với tiến bộ của khoa học hiện đại, có thể thực hiện được mà không cần đến giai cấp những người chủ sử dụng lao động của giai cấp công nhân làm thuê; họ đã chứng minh rằng muốn sản xuất có kết quả thì công cụ lao động hoàn toàn không thể để cho bị độc chiếm làm công cụ thống trị và cướp bóc công nhân, rằng giống như lao động của nô lệ và của nông nô, lao động làm thuê chỉ là hình thức nhất thời và thấp, cần phải nhường chỗ cho lao động liên hợp, tiến hành một cách tự nguyện”(14). Bởi lẽ, theo C.Mác, “chừng nào sự phân chia hoạt động còn được tiến hành không phải một cách tự nguyện (chúng tôi nhấn mạnh – N.M.H) mà một cách tự nhiên thì chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị”(15). Và, chỉ khi nào hoạt động “một cách tự nguyện” của mỗi cá nhân đạt được, thì như C.Mác đã chứng minh, khi đó mới có sự bình đẳng giữa những con người được thể hiện trước hết ở chỗ “mỗi ngườiđều có thể (chúng tôi nhấn mạnh – N.M.H) tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích”(16); khi đó, hoạt động của mỗi cá nhân riêng biệt mới không còn mang tính “độc chuyên” do bị ràng buộc bởi sự phân công lao động tự nhiên, nghĩa là khi đó, con người mới được tự do(17).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tiến bộ xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển con người thông qua việc thực hiện công bằng xã hội với một thước đo bình đẳng thực sự nhằm phát huy vai trò và khả năng con người trong nền sản xuất nói riêng, trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung. Sự phát triển xã hội là kết quả hoạt động của con người; đến lượt mình, sự phát triển này phải trở thành điều kiện cho sự phát triển ngày càng cao hơn phẩm giá của con người trong xã hội. Đây chính là mục tiêu cao nhất trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tiến bộ xã hội.r
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC THANH NIÊN
NGUYỄN THÁI SƠN (*)
Bài viết phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên. Đó là các tư tưởng: vai trò của thanh niên, vai trò của giáo dục thanh niên, giáo dục toàn diện và đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, vai trò của nhà trường và tổ chức Đoàn đối với việc giáo dục thanh niên… Trên cơ sở khẳng định ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, tác giả cho rằng, trong điều kiện hiện nay, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt những lời dạy của Người về vấn đề này; rằng, để phát huy vai trò người chủ tương lai của đất nước, thanh niên cần phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Tháng 1 năm 1946, trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”(1). Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xa trông rộng, hơn ai hết, Người thấu hiểu vai trò vô cùng to lớn của lực lượng thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, xây dựng, kiến thiết nước nhà. Để phát huy vai trò và sức mạnh của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo dục thanh niên một cách toàn diện và chu đáo. Hiểu sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm dìu dắt thế hệ trẻ. Ngay từ những ngày đầu bôn ba cứu nước, để tập hợp, giáo dục và giác ngộ cách mạng cho thanh niên, Người đã lập ra tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Trước lúc đi xa, trong “Di chúc” thiêng liêng, Người còn ân cần căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(2).
Trong số những vấn đề cần giáo dục cho thanh niên, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước. Trong năm điều Người dạy thiếu niên và nhi đồng, điều thứ nhất là: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”; đối với thanh niên, “Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn”(3). Tinh thần yêu nước là vốn quý, là sức mạnh to lớn giúp dân tộc ta đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã trong lịch sử. Nó được hun đúc từ bao đời và đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam. Ngày nay, trong thời đại Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, tinh thần ấy cần được đề cao và khơi dậy một cách mạnh mẽ để đưa chúng ta vượt qua đói nghèo, tụt hậu. Có thể khẳng định rằng, giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay, nó tiếp thêm nguồn sức mạnh, trí sáng tạo cho hàng triệu thanh niên đang ngày đêm chiến đấu, lao động, cống hiến trên mọi lĩnh vực vì sự vững bền của đất nước, cho sự thăng hoa của dân tộc, cho dáng đứng Việt Nam tạc sâu vào thiên niên kỷ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh thần yêu nước đối với thế hệ trẻ cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và mang ý nghĩa thời sự. Chúng ta tuy đã giành được độc lập tự do, đất nước hòa bình và thống nhất, song vẫn còn biết bao khó khăn và thử thách. Nghèo đói, tụt hậu… đang là những nguy cơ lớn. Sự nghiệp chấn hưng đất nước, đưa nền kinh tế nước ta phát triển ngang với trình độ của những cường quốc lớn đòi hỏi thế hệ trẻ hôm nay phải phấn đấu, nỗ lực cống hiến nhiều hơn nữa. Họ phải tự giác rèn luyện, trở thành những con người có ý chí bền vững, có lòng dũng cảm gan dạ để vượt qua những cám dỗ thấp kém, những thói hư tật xấu,… mà mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá mang lại.
Trong công cuộc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo dục toàn diện. Người cho rằng, “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục”(4). Một con người có trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không thể là một người chủ xứng đáng của đất nước, của Tổ quốc. Vấn đề giáo dục toàn diện là một vấn đề hết sức quan trọng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà; vì vậy, ngay từ hiện tại, “… thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa…”(5). Đúng như tư tưởng của Người, để hoàn thành tốt vai trò người chủ nước nhà, thanh niên phải được giáo dục, đào tạo một cách chu đáo, phải được chuẩn bị đầy đủ các hành trang cần thiết nhất. Trước hết, họ phải là những con người gương mẫu về đạo đức, có ý thức đạo đức hoàn thiện, đầy đủ; đồng thời, có thể chất cường tráng, mạnh mẽ. Có như thế họ mới có thể vượt qua được những khó khăn, thử thách; mới làm tròn được những nhiệm vụ vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề mà Đảng, dân tộc và nhân dân giao phó. Đặc biệt, họ phải là những người có trí tuệ cao, thông minh, sáng tạo, có ý chí khám phá, tìm tòi “dám nghĩ, dám làm”, biết vận dụng những thành quả của khoa học – công nghệ hiện đại vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Để trở thành những con người phát triển hài hoà và toàn diện, con đường duy nhất của thanh niên là không ngừng ra sức phấn đấu, rèn luyện, học tập trên tất cả các lĩnh vực, “phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa”. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá và sự bùng nổ của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Thanh niên Việt Nam phải biết vươn lên làm chủ những công nghệ tiên tiến nhất để xoá bỏ nghèo đói và tụt hậu, để rút ngắn khoảng cách với những quốc gia phát triển. Thực tế cho thấy, rất nhiều thanh niên đã và đang xứng đáng với lời dạy đó của Người. Những thắng lợi vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế, trong học tập, sản xuất và kinh doanh,… đã chứng minh vai trò và năng lực của các thế hệ thanh niên trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, tuổi trẻ ngày nay cần phải làm được nhiều hơn thế, cần phải tiếp tục phấn đấu và rèn luyện. Trên nhiều lĩnh vực, chúng ta còn tụt hậu, có khoảng cách quá xa so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Nhiệm vụ của thanh niên là phải góp phần thu hẹp, san bằng khoảng cách đó.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người chỉ rõ: “Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ”(6).
Được ví như mùa xuân của xã hội, nhiệm vụ của thanh thiếu niên không chỉ là học tập, rèn luyện, mà còn phải biết cống hiến và hy sinh. Trong bài nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ân cần chỉ bảo: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”(7). Lời nói của Người tuy giản dị mà thật sâu sắc biết bao. Ngày nay, còn nhiều bạn trẻ đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém, tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc, với non sông đất nước. Thói quen đua đòi, hưởng lạc, chạy theo những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đang làm hư hỏng một số thanh, thiếu niên vốn không tự giác học tập, rèn luyện. Họ đang sa vào một cuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự định hướng một cách đúng đắn. Không có lý tưởng cao cả để phấn đấu, cuộc sống con người sẽ trở nên tẻ nhạt, tầm thường, thậm chí vô nghĩa. Có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng những hiện tượng rất đáng lo ngại trong giới trẻ ngày nay, như đua xe máy, nghiện ngập ma túy…(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng”(8). Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người thanh niên cũng phải sống xứng đáng với truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa hiện nay, đất nước đang đứng trước những thời cơ và những thử thách lớn lao, hơn bao giờ hết, vai trò và trách nhiệm của thanh niên, của tuổi trẻ lại càng vinh dự và nặng nề. Tương lai của đất nước, của dân tộc đang nằm trong tay thế hệ trẻ. Chúng ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không? Chúng ta có thể đi tắt, đón đầu thời đại được hay không? Chúng ta có thể vượt ra khỏi đói nghèo, tụt hậu để trở thành một quốc gia giàu có, vững mạnh, phát triển về mọi mặt được hay không? Tất cả đang trông chờ vào ý chí, nghị lực và bản lĩnh của tuổi trẻ; tất cả đang được quyết định bởi những việc làm, những hành động cụ thể của tuổi trẻ hôm nay. Chúng ta không thể quên lời căn dặn thiết tha của Người: “Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(9).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn vào thế hệ trẻ, quan tâm đặc biệt đến sự phát triển toàn diện của họ, trong đó có sự phát triển về thể chất. Người đã nêu một tấm gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời kêu gọi mọi người, nhất là thanh niên, phải thường xuyên rèn luyện sức khoẻ, coi đó là trách nhiệmvà bổn phận của thanh niên. Họ cần có những hoạt động vui chơi lành mạnh: “Thanh niên phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên”(10). Rõ ràng, trong bối cảnh ngày nay, lời nhắc nhở đó của Bác có ý nghĩa rất quan trọng. Có lẽ, một phần do thiếu những sân chơi lành mạnh, bổ ích mà không ít bạn trẻ đã và đang lao vào những trò chơi dại dột, vô cùng nguy hiểm, như đua xe trái phép, cá độ bóng đá, cờ bạc, nghiện ngập, hút xách. Hoặc có không ít nam nữ thanh niên mải mê truy tìm những cảm giác xa lạ trên sàn nhảy, vũ trường với đủ các loại thuốc kích thích. Vui chơi, giải trí là điều không thể thiếu được đối với lứa tuổi thanh niên, song các hoạt động đó phải mang tính giáo dục, tính văn hoá và lành mạnh. Vui chơi để có thêm niềm tin và ý chí trong học tập, rèn luyện. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thú vui chơi văn hoá, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng”(11).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Để giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh rất chú trọng tới vai trò của nhà trường, của ngành giáo dục – đào tạo. Có thể nói, trường học là môi trường thuận lợi nhất để giáo dục thanh niên trên mọi phương diện. Nhà trường là nơi tuổi trẻ tiếp thu những tri thức, những kinh nghiệm để chuẩn bị bước vào đời; trau dồi đạo đức, ý chí, luyện rèn những phẩm chất cần thiết cho một tương lai tươi sáng. Trong Đời sống mới, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của nhà trường trong chế độ mới: “Cốt nhất là phải dạy học trò biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”(12).
Hiện nay, do hoàn cảnh kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, do cơ chế, chính sách chưa thực sự hoàn thiện, đồng bộ nên trong bản thân các trường học, các cơ quan, bộ phận của ngành giáo dục – đào tạo vẫn còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót. Những căn bệnh phổ biến, như “bệnh thành tích”, hiện tượng tiêu cực, bất công, gian lận trong thi cử, ngồi “nhầm” chỗ, “nhầm” lớp… vẫn chưa được khắc phục một cách triệt để. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta càng phải quán triệt tư tưởng có tính chỉ đạo của Hồ Chí Minh: dù khó khăn đến đâu cũng phải quyết tâm dạy thật tốt, học thật tốt.
Bên cạnh trường học, tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có vai trò quan trọng đối với việc giáo dục, bồi dưỡng thanh niên. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức cách mạng do chính Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, rèn luyện; là đội ngũ của những người thanh niên Việt Nam ưu tú. Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đây vừa là tổ chức, vừa là môi trường cho người thanh niên yêu nước rèn luyện và cống hiến.
Để phát huy vai trò của tuổi trẻ, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trung ương Đoàn cần phải tăng cường hơn nữa việc giáo dục tinh thần yêu nước, giác ngộ giai cấp và đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên”(13). Trong bối cảnh ngày nay, lời nhắc nhủ đó của Người lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Những thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh biết bao xương máu cho dân tộc được độc lập và tự do, cho Tổ quốc được hòa bình thống nhất, cho lãnh thổ Việt Nam được vẹn toàn. Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh trường kỳ chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất, thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu sống cuộc đời nô lệ. Con người Việt Nam vĩ đại nhất, tiêu biểu nhất cho tinh thần và ý chí đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là nhà ái quốc vĩ đại, cuộc đời cao cả của Người chính là tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ hôm nay noi theo và học tập. Việc giáo dục tuổi trẻ thông qua những tấm gương cách mạng là một vấn đề hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh là người rất thấu hiểu điều này và Người đã từng nhắc nhở: “Có số thanh niên tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay là trên trời rơi xuống, không biết sự gian nan, cực khổ cũ. Các đồng chí già phải kể lại cho họ nghe. Đó là một cách giáo dục thanh niên”(14). Đối với những tấm gương anh hùng cách mạng, với những chiến công của các anh hùng dũng sĩ đã lập nên trong công cuộc cứu nước và giữ nước, Người căn dặn: “Chúng ta phải ghi chép và thường nhắc lại những sự tích ấy… để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết quật cường, một tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Tổ quốc”(15). Người thanh niên có giáo dục phải là người “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo lý này được lưu giữ từ nghìn đời nay và đã trở thành một lẽ sống quý báu của dân tộc ta. Với những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến máu xương mình cho Tổ quốc, chúng ta phải đời đời ghi nhớ công ơn của họ. Trong “Di chúc” để lại cho đồng bào cả nước, Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”(16).
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN TRUYỀN THỐNG CẦN CÙ, TIẾT KIỆM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
MAI THỊ QUÝ (*)
Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị truyền thống, trong đó có đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đó theo những chiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. Khi đất nước còn nghèo, hơn nữa, còn phải vượt qua muôn vàn thách thức mà quá trình toàn cầu hoá đặt ra, chúng ta cần tiếp tục phát huy đức tính cần cù và tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm. Đó vừa là cách để chúng ta khẳng định và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa là phương thức tăng cường nội lực nhằm tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Có vẻ sẽ thật là ngớ ngẩn nếu như mỗi một người trong chúng ta lại không tự trả lời được những câu hỏi, như chúng ta là ai? chúng ta sinh ra từ cội nguồn nào? chúng ta thuộc về dân tộc nào và chúng ta có gì giống cũng như có gì khác với những con người ở các dân tộc khác?… Thế nhưng, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản như vậy lại khó có thể trả lời một cách dễ dàng, chính xác.
Trước tiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, mỗi một dân tộc trên thế giới đều sinh sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội không hoàn toàn giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy, ở mỗi dân tộc sẽ hình thành một nền văn hoá khác nhau với những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen, truyền thống, chuẩn mực đạo đức, lối sống, tư tưởng… (tức là những ý thức xã hội) khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội của chính dân tộc đó.
Trước toàn cầu hoá, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra nhưng chủ yếu còn mang tính cá biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi khi toàn cầu hoá xuất hiện, đặc biệt là toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu (Internet), thế giới dường như được thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều có thể “cho” và “nhận”, nghĩa là họ có thể học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình.
Tuy nhiên, giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử – cụ thể; vì vậy, một hiện tượng nào đó có thể có giá trị đối với cộng đồng người này mà không có giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với cộng đồng người khác. Nhưng, trong toàn cầu hoá, các giá trị riêng của “thế giới người giàu” vẫn được áp đặt lên “thế giới người nghèo”, buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác mà lối sống thực dụng, hưởng thụ xa hoa là một điển hình. Chính nó đã tác động mạnh mẽ đến những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, trong đó có đức tính cần cù, tiết kiệm.
Cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã phải chống chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại xâm giày xéo liên miên. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính cần cù “một nắng, hai sương” và tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh “ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng”, “cày đồng đang buổi ban trưa”, hay “tát nước đêm trăng” đã trở nên quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó không chỉ là những hình ảnh đẹp, mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của nhân dân ta.
Với tính cách một giá trị, cần cù có thể được hiểu là sự nhiệt tình với nghề nghiệp, lòng yêu lao động, yêu công việc; là tinh thần trách nhiệm đối với công việc; là đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động… nhằm đạt được kết quả lao động tốt nhất. Trên bình diện xã hội, giá trị cần cù được hiểu là sự đề cao tinh thần yêu lao động, đề cao tính năng động, sáng tạo trong lao động, đề cao hiệu quả của lao động… của cả cộng đồng.
Trong thời kỳ trước đổi mới, những sai lầm trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và sự nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến đức tính cần cù truyền thống của người lao động. Tình trạng “cha chung không ai khóc”, “lắm vãi không ai đóng cửa chùa”, đi làm theo kiểu “tối ngày đầy công”… trở nên phổ biến. Cơ chế phân phối bình quân, cào bằng đã khiến cho người lao động thờ ơ, không thiết tha với công việc và không quan tâm đến kết quả lao động của mình; hiện tượng lãng phí của công, lãng phí thời gian diễn ra khắp nơi dẫn đến sức lao động bị giảm sút, năng suất lao động thấp kém, nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với việc giải quyết đúng đắn một loạt các vấn đề về sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối và cùng với đó là việc tăng cường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động…, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi người dân đã được kích thích mạnh mẽ. Qua đó, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó cũng được phát huy ở mức độ cao. Với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mọi người dân đã chủ động, tích cực, tự giác hăng say lao động với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả lao động cao.
Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhưng về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn, đời sống của đại đa số người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, một thách thức lớn mà toàn cầu hoá kinh tế đặt ra là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Hiện nay, ngay cả ở những nước phát triển – những nước có năng lực cạnh tranh tốt – sự tích cực, khẩn trương trong lao động nhằm đạt năng suất và hiệu quả lao động cao vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, phẩm chất cần cù của người lao động Việt Nam là một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo những chiều hướng khác nhau, vừa tích cực, vừa tiêu cực.
Trước hết, toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu và tạo điều kiện để phát huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong toàn cầu hoá, các quốc gia, các chủ thể kinh tế phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt mà muốn thắng lợi, trước hết cần phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, lao động với cường độ cao. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay. Nhưng, nếu không đáp được yêu cầu đó cũng có nghĩa là chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi toàn cầu hoá.
Thứ hai, trong toàn cầu hoá, các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ngày càng nhiều ở Việt Nam và sử dụng một lực lượng lao động không nhỏ. Phải thừa nhận rằng, các công ty, xí nghiệp này có cơ chế quản lý lao động và phân phối hợp lý theo kiểu tư bản nên luôn tạo ra được sự khẩn trương, tích cực, năng động và tự giác của người lao động. Đây là một đòi hỏi không chỉ của các chủ thể sử dụng lao động, mà còn là yêu cầu bên trong của mỗi người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Thứ ba, toàn cầu hoá cũng đem đến cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao ở trong nước, cũng như nước ngoài tuỳ vào khả năng của mỗi người. Khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, người lao động sẽ tích cực lao động hơn, hạn chế cảnh “nhàn cư vi bất thiện” vẫn thường xảy ra khi họ không có hoặc thiếu việc làm.
Thứ tư, trong quá trình toàn cầu hoá, điều kiện lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn được cải thiện tốt hơn trước rất nhiều, những thành tựu của khoa học công nghệ được ứng dụng vào sản xuất làm cho lao động nặng nhọc giảm dần, trong khi năng suất lao động lại tăng lên. Người lao động có điều kiện để yêu thích và say mê đối với công việc của mình và do vậy, nhịp sống cũng như không khí lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn đã trở nên sôi động hơn nhiều. Theo Tổng cục thống kê, năm 2001, ở nông thôn, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 21,02 giờ, lúc cao điểm lên tới 54,92 giờ. Đối với những lao động phi nông nghiệp, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 44,77 giờ. Ngay cả những người trên 60 tuổi cũng làm việc tới 26 – 38 giờ/tuần. Số giờ lao động trung bình như vậy là khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo chúng tôi, đó là một trong những dấu hiệu tích cực, chỉ báo giá trị cần cù của người dân Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, toàn cầu hoá cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức truyền thống cần cù của dân tộc. Có thể thấy rằng, mặc dù tạo cơ hội có việc làm cho không ít người, nhưng toàn cầu hoá cũng có thể khiến nhiều người không có hoặc mất việc làm do hạn chế về trình độ, không đáp ứng được yêu cầu của công việc hay do công ty bị phá sản, thua lỗ, khủng hoảng trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Trong điều kiện như vậy, người lao động nếu có muốn cần cù e rằng cũng khó; bởi lẽ, họ đã bị mất việc làm, hoặc khó tìm được việc làm. (Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Thêm nữa, do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ từ bên ngoài tràn vào, một bộ phận lớp trẻ ngày nay quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, thích ăn chơi hưởng thụ xa hoa, lười lao động, hay đòi hỏi mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, với xã hội; chỉ muốn “làm chơi” nhưng “ăn thật”, thậm chí không làm mà vẫn có thật nhiều tiền để tiêu xài những thứ tiện nghi sang trọng, đắt tiền.
Một bộ phận sinh viện thời nay rất lười học, học chỉ mang tính chất đối phó, không ít sinh việc do đua đòi mà dẫn đến hư hỏng. Một số thanh, thiếu niên không lo học tập, lao động mà thích sống buông thả với ma tuý, với thuốc lắc… Gần đây, tình trạng này đang ở mức báo động. Thậm chí, ngay cả ở các công sở, trong giờ làm việc, nhân viên vẫn có thể “nhởn nhơ” ngoài đường, ở các quán trà hoặc ngồi chơi game trên máy tính. Nhiều thanh thiếu niên có thể ngồi hàng giờ trên mạng, nhưng không phải để học tập hay cập nhật những thông tin cần thiết, mà là để “chat” những chuyện không đâu với những người “quen ảo” một cách vô bổ. Hiện tượng lãng phí thời gian diễn ra khá phổ biến. Đã xuất hiện những suy nghĩ lệch lạc cho rằng, cuộc sống thật là ngắn ngủi, vì vậy cần phải sống gấp, phải hưởng thụ để sau này khỏi phải hối tiếc, không việc gì phải “nai lưng làm quần quật” cho khổ. Suy nghĩ đó, lối sống đó đã thực sự trở thành nỗi lo ngại đối với tương lai của dân tộc.
Tất nhiên, bản thân việc sử dụng những hàng hoá chất lượng cao hay nhu cầu được sử dụng những hàng hoá đó là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với sự phát triển của xã hội cùng với nhu cầu ngày càng cao của con người. Nhưng, không phải lúc nào và ở đâu, tư tưởng tiêu thụ cũng mang ý nghĩa tích cực. Với những quốc gia mà ở đó, người dân có thu nhập cao thì nhu cầu tiêu thụ vừa nâng cao mức sống của người dân, vừa là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển và trong điều kiện như vậy, nó là một giá trị. Ngược lại, đối với những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp như các nước đang phát triển và kém phát triển hiện nay, việc “bắt chước” lối sống của một xã hội tiêu thụ lại là không phù hợp. Sẽ có không ít vấn đề tiêu cực về kinh tế, về xã hội, về tâm lý, về tư tưởng… xảy ra khi người dân có nhu cầu tiêu dùng rất cao, thậm chí là quá cao vượt lên gấp nhiều khả năng thanh toán của họ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Chính vì vậy, cần phải làm sao cho mọi người dân hiểu rằng, giữa nước ta với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới còn có một khoảng cách rất xa. Bởi thế, để rút ngắn khoảng cách lạc hậu này, chỉ có cách là trong khi thế giới “đi” được một bước thì chúng ta “phải” chạy được hai hoặc ba bước, nếu không chúng ta sẽ lâm vào tình trạng “đi lên trong một cầu thang chạy xuống” mà thôi. Trong điều kiện đó, trước tiên cần phát huy đức tính cần cù vốn có của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải chăm chỉ hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn trong lao động, học tập, công tác để làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Theo chúng tôi, bài học của Malaixia là rất có giá trị đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. M.Mohamed từng nhấn mạnh: “Thế giới đã không hạ cố đến chúng tôi. Chúng tôi đã phải nắm cổ thế giới và đưa thế giới đến với mình. Chúng tôi đã phải làm việc không mệt mỏi. Việc chúng tôi có một nền kinh tế thông thoáng đến như vậy và một xã hội mở cửa đến như vậy là kết quả của những chính sách thận trọng, của sự quyết tâm bền bỉ và của cả một đại dương mồ hôi nước mắt”(1).
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chỉ cần cù thôi thì chưa đủ, nó cần phải gắn với sáng tạo và nắm bắt được những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất. Nếu trước đây cha ông ta nói “năng nhặt, chặt bị”, thì bây giờ chúng ta cần bổ sung rằng: không chỉ “năng nhặt”, mà còn phải “biết nhặt” nữa mới có thể “chặt bị” được.
Trong truyền thống của dân tộc ta, cần cù luôn gắn liền với tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người Việt Nam rằng, mỗi người phải có trách nhiệm với mình, với gia đình, xã hội và các thế hệ mai sau. Hơn nữa, do cuộc sống quá khó khăn lại không ổn định, nên người Việt Nam thường có tâm lý dành dụm đề phòng những trường hợp bất trắc xảy ra theo kiểu “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” và ghét thói xa hoa phù phiếm “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa sổ”, “bóc ngắn, cắn dài” hay “kiếm củi ba năm thiêu một giờ”…(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong những năm gần đây, do đời sống của đại đa số người dân đã được cải thiện cộng với ảnh hưởng của lối sống phương Tây, nên đã xuất hiện xu hướng lao vào hưởng thụ, tiêu xài lãng phí, xa hoa cả trong sinh hoạt cá nhân cũng như trong sinh hoạt tập thể. Các nhà hàng mọc lên như nấm với đủ loại “đặc sản”. Người ta kéo đến các nhà hàng ngày càng đông. Có người đến để thưởng thức, nhưng cũng không ít người đến đó chỉ vì muốn chơi sang và thể hiện “đẳng cấp” của mình. Ăn uống không hết thì đổ đi, thậm chí không dùng vẫn gọi chơi cho oai. Cưới xin, ma chay, sinh nhật, giỗ chạp… thì tổ chức linh đình, tốn kém, lãng phí và vì vậy, làm mất cả ý nghĩa tốt đẹp của nó. Nhiều người thấy sợ mỗi khi cầm trong tay một tấm thiệp mời, thay vì thấy mừng cho đôi bạn trẻ. Đó là một thực tế đã và đang xảy ra ở nước ta hiện nay. Thực tế này không những có ảnh hưởng không tốt đến lối sống tiết kiệm vốn có của nhân dân ta, mà còn là một trong những nguyên nhân thúc đẩy con người phải kiếm tiền bằng mọi cách để hưởng thụ, kể cả vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo đức.
Đặc biệt, hiện tượng lãng phí của công, tham nhũng để ăn chơi phè phỡn, tiêu “tiền chùa” đang nổi lên như một quốc nạn. Về vấn đề này, Đảng ta đã nhận định: “Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển”(2). Ông Il Houng Lee, Trưởng đại diện Quỹ tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam, đã nhận định rằng, Việt Nam có thể phải mất 197 năm để đuổi kịp Singapo nếu như hai nước cùng giữ mức độ tăng trưởng như hiện nay; rằng, Việt Nam cần phải tiết kiệm hơn nữa để có thể hỗ trợ thêm cho các khoản đầu tư nếu không muốn lệ thuộc hoàn toàn vào vốn nước ngoài(3). Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phải khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa lãng phí. Đó là một trong những nhân tố quyết định thành công trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Cần phải nhận thức rằng, tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn. Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ: “Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm” và nhắc nhở chúng ta rằng: “Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng”(4).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể, nhưng Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người
- mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta không thể bắt chước lối sống tiêu xài phung phí khi điều kiện chưa cho phép. Vì vậy, cần phải tích cực động viên người dân tiết kiệm hơn nữa trong tiêu dùng, cũng như trong sản xuất. Để tăng hiệu quả sản xuất, cần tránh hiện tượng lãng phí thời gian và tiền của đang diễn ra tràn lan ở các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế Nhà nước – thành phần kinh tế được coi là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Nhà nước cần phải có kế hoạch, biện pháp tích cực nhằm tạo ra nhiều việc làm mới hơn nữa; đồng thời, phải có cơ chế thuận lợi để người dân tự tạo được việc làm nhằm giảm tới mức thấp nhất lực lượng lao động dư thừa trong xã hội. Các dự án đầu tư cần phải được lựa chọn kỹ càng, đúng hướng, tránh đầu tư tràn lan làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Tuy vậy, vẫn phải mạnh dạn đầu tư vốn vào những đề án thực sự cần thiết đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần phải tiếp tục tăng cường chống tham nhũng, chống lãng phí của công hoặc làm thất thoát tiền của của Nhà nước. Thực hiện tốt tiết kiệm trong sản xuất sẽ làm giảm chi phí đầu vào của hàng hoá, tức là sẽ hạ được giá thành sản phẩm và như vậy, cũng có nghĩa là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, góp phần khẳng định và nâng cao vị thế của nước ta trong quá trình hội nhập.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Cần phải nhấn mạnh rằng, trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, mỗi người Việt Nam không được phép quên đi truyền thống cần cù, tiết kiệm đã có từ bao đời nay của dân tộc để chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa. Điều đó không chỉ khẳng định bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, mà quan trọng hơn, còn tăng thêm nội lực cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên toàn cầu hoá./.
(*) Thạc sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hoá.
- Mahathir Mohamad. Toàn cầu hoá và những hiện thực mới. Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tr.72-73.
- Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.63.
- Xem: Báo Tuổi trẻ, số ra ngày 08/04/2006, tr.3.
- Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.637.
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CỦA TRIẾT HỌC SO SÁNH ĐÔNG – TÂY: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ TRIỂN VỌNG
NGUYỄN VŨ HẢO (*)
Triết học so sánh Đông – Tây với tư cách lĩnh vực chuyên ngành tập trung chủ yếu vào nghiên cứu so sánh giữa các nền triết học phương Đông và phương Tây xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ XIX ở châu Âu, sau đó là ở các quốc gia thuộc phương Đông. Kết quả chủ yếu mà triết học so sánh Đông – Tây đã đạt được là làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt giữa các nền triết học này. Sự phát triển rộng rãi của chuyên ngành này đã dẫn đến sự hình thành môn triết học liên văn hoá vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Phương pháp tiếp cận của triết học so sánh Đông – Tây chủ yếu tập trung vào những vấn đề, như nguồn tư liệu của các nền triết học, sự phát triển của mô hình so sánh, phương pháp so sánh các nền triết học, những đặc điểm và quy tắc của đối thoại triết học liên văn hoá.
Trong một cuốn sách nhan đề: “Triết học hình thành trong các khu vực khác nhau trên trái đất như thế nào và tại sao?”, xuất bản năm 1988, tập thể tác giả người Cộng hòa Dân chủ Đức đã đặt vấn đề xây dựng bản đồ triết học thế giới[i]. Bên cạnh ba cái nôi lớn của triết học nhân loại, như Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ, các tác giả này còn đề cập tới một số địa danh triết học khác, như Nhật Bản, các nước Hồi giáo, các nước châu Phi, các nước Nam Mỹ, v.v.. Điều quan trọng mà họ muốn nhấn mạnh là đặc thù của tư duy triết học ngoài châu Âu và tính đa dạng của sự hình thành tư duy triết học nhân loại. Từ đó, các tác giả này đã đưa ra một danh mục các địa danh triết học thế giới với một sự chọn lựa khá chặt chẽ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Từ cách nhìn nhận trên, có thể đặt ra những câu hỏi: thứ nhất, liệu bản đồ triết học thế giới này còn có thể mở rộng được nữa hay không một khi triết học được hiểu khác với khái niệm triết học theo truyền thống của triết học Tây Âu, hoặc một khi bản đồ triết học thế giới được xem là gần gũi với bản đồ các nền văn hóa thế giới; thứ hai, trong ý nghĩa ấy, liệu triết học Việt Nam có chỗ đứng của mình trên bản đồ triết học thế giới hay không. Theo chúng tôi, vấn đề về khả năng mở rộng của bản đồ triết học thế giới và vị thế của triết học Việt Nam trên bản đồ triết học thế giới này, ở mức độ nào đó, có thể được luận giải từ phương pháp tiếp cận của triết học so sánh, một phương pháp tiếp cận có nhiều triển vọng, đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích khái quát lịch sử vấn đề và triển vọng của phương pháp tiếp cận này.
Triết học nhân loại đã trải qua một lịch sử kéo dài suốt từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua. Danh từ “triết học” có xuất xứ từ Tây Âu, từ thuật ngữ “philo-sophia” ở Hy Lạp cổ đại. Tất nhiên, không phải chỉ Hy Lạp mới là cội nguồn duy nhất, thực sự của triết học thế giới. Là sự kết tinh của tinh thần thời đại, các nền triết học được hình thành một cách tương đối độc lập với nhau và phát triển dưới những hình thức muôn hình muôn vẻ của mình ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở ba trung tâm lớn của triết học nhân loại từ thời Cổ đại, là Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tuy nhiên, khó khăn về khoảng cách địa lý và hạn chế về phương tiện đi lại, phương tiện giao tiếp giữa các cộng đồng văn hóa trên thế giới đã là những trở ngại đáng kể cho sự giao lưu giữa các nền văn hóa, giữa các nền triết học Đông – Tây. Quá trình giao lưu, so sánh, truyền bá, tiếp thu và học hỏi giữa các nền triết học khác nhau trong giai đoạn đầu tiên của nó chủ yếu chỉ dừng lại trong phạm vi các nền văn hóa lân cận và ở mức độ rất hạn chế. Quá trình này thường gắn liền với sự gia tăng các hoạt động buôn bán khu vực và quốc tế, với các cuộc chiến tranh mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng của các nước, với sự phát triển của giao thông hàng hải, với sự truyền bá của các tôn giáo (trước hết là Phật giáo, Kitô giáo và Hồi giáo) và đặc biệt, với quá trình thuộc địa hóa của các cường quốc phương Tây trong suốt nhiều thế kỷ. (Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Một trở ngại lớn khác cho sự giao lưu, so sánh giữa các nền triết học Đông –Tây chính là sự gia tăng rõ rệt của lối tư duy lấy mình, lấy cộng đồng văn hóa mình làm trung tâm mà một trong những biểu hiện rõ nhất của nó là thuyết lấy châu Âu làm trung tâm (Eurocentrism), nhất là từ thời kỳ Khai sáng ở châu Âu. Các đại biểu của chủ thuyết này xem nền văn hóa Tây Âu là đỉnh cao của toàn bộ các quá trình phát triển lịch sử nhân loại trên trái đất. Coi các tư tưởng, các giá trị của nền văn minh phương Tây là có tính phổ quát, họ thường đề cao việc truyền bá những tư tưởng và giá trị này cho các dân tộc khác, các nền văn hóa khác, hoặc thậm chí biện minh cho chủ nghĩa thực dân phương Tây, cho công cuộc thuộc địa hóa, chinh phục các nước khác với chiêu bài “khai phá văn minh”. Họ coi các nền văn hóa khác ngoài châu Âu là không có khả năng tư duy triết học. Nhiều nhà tư tưởng phương Tây có xu hướng coi triết học chỉ là di sản của lịch sử tư tưởng phương Tây và đồng nhất lịch sử triết học phương Tây với toàn bộ lịch sử triết học nhân loại. Các nhà Khai sáng Anh, như Hium, Lốccơ, các nhà Khai sáng Pháp, như Vônte, Điđrô và các nhà Bách khoa toàn thư Đức, như Lesinh, Cantơ đã xem thời đại mình như đỉnh cao của toàn bộ quá trình phát triển lịch sử và coi nền văn hóa Tây Âu là tâm điểm cho tất cả các nền văn hóa khác. Chẳng hạn, trong bài giảng về Địa vật lý, trong các tác phẩm, như Siêu hình học đạo đức,Tư tưởng về lịch sử đại cương theo mục tiêu công dân thế giới, hay Hướng đến một nền hòa bình vĩnh cửu, Cantơ đã biện hộ cho những định kiến chủng tộc đối với những nền văn hóa khác, mặc dù ông là nhà tư tưởng của lý tính và tự do, người đã đưa ra những tuyên bố hùng hồn về quyền con người, về xã hội công dân thế giới, về nền hòa bình vĩnh cửu. Theo ông, người da màu là một con vật không có được bất cứ sự tinh tế nào của một nền giáo dục và con vật này thể hiện một cách truyền cảm “sự ác độc của bản chất con người”. Da màu còn được Cantơ gán cho ý nghĩa siêu hình học nhằm “phân biệt loài người một cách rõ ràng theo các đẳng cấp khác nhau”(2).
Với lối tư duy cực đoan của thuyết lấy châu Âu làm trung tâm, nhiều đại biểu của triết học phương Tây dường như không sẵn sàng thừa nhận tư duy triết học trong các nền văn hóa khác ngoài châu Âu. Do vậy, trong suốt thời kỳ hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây kéo dài hàng trăm năm, họ đã không chủ trương thực hiện giao lưu văn hóa Đông – Tây trong lĩnh vực triết học trên tinh thần tôn trọng, học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa triết học khác nhau. Chính vì những nguyên nhân ấy mà cho đến đầu thế kỷ XIX, triết học so sánh chưa có được cơ sở hình thành và phát triển.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Vào những năm 20 của thế kỷ XIX, ở các trường đại học châu Âu đã bắt đầu xuất hiện những mầm mống đầu tiên cho môn triết học so sánh, lĩnh vực chuyên ngành tập trung chủ yếu vào nghiên cứu so sánh giữa các nền triết học thuộc các truyền thống khác biệt nhau, giữa nền triết học phương Tây và nền triết học phương Đông.
Cái mốc quan trọng đánh dấu sự nhận thức đúng đắn và tôn vinh triết học Ấn Độ ở Tây Âu là việc A.Slêgen “phát hiện” và dịch thuật tác phẩm Bhagavad-Gita ra tiếng La tinh vào năm 1823 tại Berlin. Trong một bài viết năm 1826 với nhan đề “Về sự kiện nổi tiếng của Mahabharata dưới tiêu đề Bhagavad-Gita”, V.Humbôn đã ca ngợi những tư tưởng triết học Ấn Độ được trình bày trong tác phẩm này. Bản thân ông cũng đã từng sử dụng một số đoạn trích từ kinh Vêda do H.Colơbrúcơ dịch ra tiếng Anh và được xuất bản năm 1798 tại Calcutta trong cuốn Sự điều hành xã hội hoàng gia châu Á. Những nỗ lực của Slêgen và Humbôn đã mang đến cho các độc giả Đức và châu Âu một tinh thần cởi mở đối với tư tưởng Ấn Độ nói riêng, tư tưởng ngoài châu Âu nói chung.
Trong khi đó, bình luận về tác phẩm của người Ấn Độ – Bhagavad-Gita và về bài viết nói trên của Humbôn, Hêghen lại đưa ra những nhận xét khá dè dặt, thậm chí cả những đánh giá chưa đúng mức đối với những tư tưởng triết học Ấn Độ, khi cho rằng, chúng mới chỉ ở dạng nền tảng ban đầu hay tiền đề của triết học, bởi những lời giáo huấn riêng lẻ được đưa ra trong triết học Ấn Độ, chẳng hạn như trong thuyết Yoga, dường như chưa có tính hệ thống – một yêu cầu mà theo Hêghen là không thể thiếu được cho việc xây dựng một nền triết học đích thực(3). Trong quan niệm về lịch sử triết học, Hêghen cho rằng, mặc dù triết học đã có tiền lịch sử của nó ở Trung Quốc, Ấn Độ, Tiểu Á, v.v., nhưng lịch sử triết học chỉ bắt đầu thực sự ở các nhà tư tưởng cổ Hy Lạp, như Talét, Anaximanđrơ, Hêraclít, Parmênít, v.v., trong khu vực Địa Trung Hải và cuối cùng, đạt tới sự hoàn thiện của nó ở châu Âu, ở phía bắc của dãy núi Anpơ(4). Tuy vậy, với những sự kiện nói trên, đã xuất hiện cơ sở đầu tiên cho sự hình thành triết học so sánh Đông – Tây sau này. Các nền triết học ngoài châu Âu đã dần thu hút sự quan tâm của các nhà tư tưởng phương Tây.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Việc nghiên cứu về các tư tưởng triết học ngoài châu Âu, như tư tưởng Ấn Độ, tư tưởng Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo và Lão giáo, và tư tưởng Nhật Bản được đẩy mạnh ở phương Tây trong suốt thế kỷ XIX và thế kỷ XX đã mang đến nhiều thành quả quan trọng cho sự phát triển của sự giao lưu giữa các nền văn hóa Đông – Tây và khích lệ sự hình thành của triết học so sánh Đông – Tây. Trong lĩnh vực nghiên cứu so sánh Đông – Tây, phải kể đến tên tuổi của các học giả phương Tây như M.Vêbơ , P.Đoisen, N.Duêđơblôm, F.Hailơ, W.Ốttô, G.V.Đ.Liuvơ, H.V.Glasơnáp, R.Vinhem, G.Mêsinh, M.Eliađơ, J.Legơ và J.Nitham, đặc biệt là M.Haiđơgơ(6), v.v..
Tuy nhiên, ở nhiều học giả phương Tây vẫn ngự trị kiểu tư duy lấy mình làm trung tâm, lấy châu Âu làm trung tâm. Cũng như Cantơ và Hêghen, Huxéc đã bác bỏ mọi thứ triết học ở ngoài châu Âu. Đặc biệt, phải nhắc đến cách diễn đạt cực đoan của Haiđơgơ mà theo đó, nói đến triết học châu Âu là thừa, là trùng lặp, bởi tư tưởng châu Âu đã chính là triết học và triết học cũng chính là châu Âu(7).
Đáng chú ý là, trong giai đoạn tiền lịch sử của triết học so sánh Đông –Tây thế kỷ XIX, sự giao lưu triết học Đông – Tây này lại không được thực hiện ở các khoa, bộ môn và viện nghiên cứu triết học, mà chủ yếu ở các khoa, các viện nghiên cứu Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản hay phương Đông, v.v.. Những nghiên cứu so sánh Đông – Tây này ban đầu thường có tính liên ngành, chứ không thuần tuý về triết học được hiểu theo quan niệm của phương Tây, liên quan không chỉ đến triết học, mà còn đến nhân học, xã hội học, tôn giáo học, sử học, dân tộc học, văn học, ngôn ngữ học, nghệ thuật, v.v.. Trong số các nghiên cứu so sánh này, phải kể đến những đóng góp của các nhà dân tộc học hay các nhà nhân học văn hóa, những người đã nỗ lực nghiên cứu và phân tích một cách khái quát những điểm tương đồng và khác biệt về phương thức tư duy giữa các dân tộc phương Tây và các dân tộc phương Đông.
Tuy vậy, ở giai đoạn này, việc giao lưu triết học Đông – Tây vẫn chưa thực sự chuyên sâu. Việc so sánh giữa các nền triết học phương Tây và triết học phương Đông chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở phương pháp tiếp cận từ bên ngoài, chưa thực sự liên quan đến nội dung triết học sâu xa của chúng.
Chỉ đến cuối thế kỷ XIX, khi triết học Trung Quốc và Ấn Độ được đưa vào cuộc tranh luận với tư tưởng châu Âu, mới xuất hiện chính thức tên gọi môn triết học so sánh (Comparative Philosophy). Năm 1923, xuất hiện cuốn chuyên khảo đầu tiêntriết học so sánh (La Philosophie Comparée) của nhà triết học Pháp O.P.Masông-Ursen. Cuốn sách được dịch ra tiếng Anh vào năm 1926 và có một tầm ảnh hưởng rộng lớn. Khi so sánh các nền triết học Ấn Độ, Trung Quốc với triết học phương Tây, với phương pháp tiếp cận lịch sử, Masông-Ursen đã cố gắng tìm ra sự tương đồng và những yếu tố có thể so sánh được giữa những nền triết học của các truyền thống khác nhau.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Sự hình thành triết học so sánh Đông -Tây thế kỷ XX đã dần khẳng định vị thế của các nền triết học ngoài châu Âu, rằng triết học tuyệt nhiên không phải là việc riêng của Tây Âu; rằng Tây Âu không phải là trung tâm duy nhất của triết học nhân loại, có nhiệm vụ xuất khẩu triết học sang các nước khác, các châu lục khác trên thế giới.
Việc nghiên cứu so sánh giữa triết học phương Đông và phương Tây không chỉ được thực hiện bởi các học giả phương Tây, mà còn bởi các học giả phương Đông, bởi các nhà triết học Ấn Độ, như Xri Oirôbinô, Xri Rađakrisnam, Raymônđơ Panika, Ram Átđa, hay bởi các nhà triết học Trung Quốc, như Wang Gung-Hsing, Lin Yutang, Fung Yu-lan và Liu Wu-chi. Các triết gia phương Đông này đã nghiên cứu so sánh một cách cơ bản nền triết học “bản địa” của dân tộc mình với truyền thống triết học Tây Âu, làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Xri Rađakrisnam cho rằng, không chỉ con người và cuộc sống của con người ở khắp mọi nơi là như nhau, cho dù có sự khác nhau về truyền thống và giá trị trong các nền văn hóa khác nhau, mà cả những nguyên tắc của kinh nghiệm con người nhằm tạo ra những dữ kiện cho sự phản tư triết học cũng đều giống nhau.
Triết học so sánh Đông – Tây ngày càng tìm được vị thế không dễ dàng có được của mình ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Nói về những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của triết học so sánh Đông – Tây, trước hết phải kể đến các nhà triết học như P.O.Ingram, F.J.Strêngơ, R.E.Anlixơn, R.T.Amơxơ, v.v.. Ở đây, cũng không thể không nhắc đến Viện Triết học Đông – Tây (The Institute of Philosophy East and West) với hơn một trăm cộng tác viên tại Honolulu (Hoa Kỳ), một viện chuyên nghiên cứu về triết học so sánh Đông – Tây với tư tưởng chiến lược được đưa ra từ năm 1939 là: phát triển nền triết học thế giới trên cơ sở tổng hợp các nền triết học phương Đông và phương Tây. Năm 1951, Tạp chí Triết học Đông – Tây (Philosophy East and West) của Trường Đại học Haoai đã ra mắt người đọc. Tạp chí này gắn liền với tên tuổi của các triết gia nổi tiếng, như O.T.Suzuki, S.Rátkhakrisnan, Husi, Vécxơchan, Caliđơxơ, v.v.. Những cuộc hội thảo quốc tế về triết học so sánh Đông – Tây được tổ chức thường xuyên ở Honolulu.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Môn triết học so sánh phát triển mạnh mẽ không chỉ ở Mỹ. Năm 1973, ở Nhật Bản, Tạp chí Triết học so sánh đã được thành lập dưới sự chỉ đạo của nhà triết học H.Nakamura và từ tháng 12 năm 1999, đã xuất hiện một loạt sách chuyên đề về triết học so sánh với nhan đề Triết học Kyoto do các học trò của nhà triết học Kitaro Nishidas và các đại biểu của trường phái Kyoto xuất bản(8).
- Việt Nam, trong suốt thế kỷ XX, việc nghiên cứu triết học so sánh Đông – Tây cũng thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu với một số lượng chưa nhiều các công trình nghiên cứu, dịch thuật và bài viết chưa mang tính hệ thống, có liên quan trực tiếp hay gian tiếp đến lĩnh vực này. Trong số này, có thể kể đến một số sách và bài viết tiêu biểu, như cuốn Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông – Tây của tác giả Kim Định, xuất bản năm 1974; cuốn Triết học Đông – Tây do Nguyễn Như Diệm làm chủ biên (gồm các bài viết đã được đăng trên các tạp chí nước ngoài bàn về đối thoại triết học Đông – Tây và được dịch ra tiếng Việt), xuất bản năm 1996(9), cuốn Minh triết trong tư tưởng phương Tây của Nguyễn Thu Phong, xuất bản năm 2002. Đặc biệt, khi nói đến việc dịch thuật các công trình nghiên cứu về triết học so sánh Đông – Tây ở Việt Nam, không thể không nhắc đến nhà triết học Pháp – Phranxoa Juliên, học giả có số lượng công trình nghiên cứu triết học lớn nhất (gần10 công trình) đã được dịch ra tiếng Việt. Trong số này, phải kể đến cuốn Xác lập cơ sở cho đạo đức – đối thoại giữa Mạnh Tử và một số triết gia phái Khai sáng do Hoàng Ngọc Hiến dịch năm 2002, cuốn Minh triết phương Đông và triết học phương Tây do Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu năm 2003. Đó là những cuốn sách khá thịnh hành ở Việt Nam và đang được nhiều học giả, độc giả quan tâm. Trong những cuốn sách liên quan đến triết học so sánh này, Phranxoa Juliên đã cố gắng tìm hiểu tư tưởng Trung Quốc từ cách nhìn phương Tây và xem xét lại một cách có hệ thống tư tưởng Tây Âu từ cách nhìn Trung Quốc. Tháng 5 năm 2005, một cuộc Hội thảo khoa học dành riêng cho Phranxoa Juliên và các tác phẩm có liên quan đến triết học so sánh của ông được tổ chức tại Huế với chủ đề “Franỗois Jullien – từ khơi nguồn tư tưởng đến khai hóa giao lưu”. Hội thảo này đã thu hút được sự tham gia tích cực của Phranxoa Juliên và các học giả Việt Nam quan tâm đến triết học so sánh Đông – Tây.
Tháng 6 năm 2006, được sự tài trợ của quỹ Ford, Hội thảo quốc tế với chủ đề “Triết học so sánh Đông – Tây và vai trò của triết học trong đời sống xã hội” đã được tổ chức tại Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Một số giáo sư triết học trường Đại học Temple, Hoa Kỳ và các học giả Việt Nam đã tham gia và trình bày báo cáo tham luận tại Hội thảo này.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Ngoài ra, còn có thể kể đến một số bài viết riêng lẻ đề cập đến triết học so sánh Đông
- Tây, chẳng hạn như bài viết của các tác giả Nguyễn Hùng Hậu, Hoàng Thị Thơ, Nguyên Ngọc, Lê Hữu Khóa, Trương Thi An Na, Hoàng Ngọc Hiến, Thái Thị Kim Lan, v.v. đăng trên một số tạp chí và sách chuyên luận. Nhìn chung, việc nghiên cứu về triết học so sánh Đông – Tây ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng nghiên cứu còn khá khiêm tốn này là, việc nghiên cứu so sánh triết học Đông – Tây đòi hỏi các nhà nghiên cứu không những phải có trình độ uyên thâm cả về triết học phương Đông lẫn triết học phương Tây, mà còn phải biết một số ngoại ngữ phương Đông và phương Tây. Điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng cả về thời gian lẫn tài chính. Trong hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, đòi hỏi này không dễ gì có thể đáp ứng được. Ngoài ra, để nghiên cứu so sánh triết học Đông – Tây, cần phải có sự hỗ trợ và hợp tác chặt chẽ của các nhà triết học quốc tế ở cả phương Đông lẫn phương Tây.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Sự phát triển của môn triết học so sánh Đông Tây đã tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của môn triết học mới vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX – đó là triết học liên văn hóa (the intercultural Philosophy), môn triết học phi địa danh, vượt lên trên các trào lưu triết học riêng biệt trong các nền văn hóa phương Đông hoặc phương Tây và cả triết học so sánh. Triết học liên văn hóa đã thể hiện được tính cởi mở đối với các giá trị phổ quát của nhân loại. Với tư cách là thành quả, là bước phát triển đặc biệt của triết học nhân loại trên cơ sở của triết học so sánh, triết học liên văn hóa hướng đến việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn hóa từ giác độ triết học, thông qua các mô hình chú giải học phổ quát, không phụ thuộc vào tư duy triết học của các nền triết học thế giới ở châu Á, châu Âu, châu Phi hay châu Mỹ. Sự hình thành và phát triển của triết học liên văn hóa, kể từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, gắn liền với tên tuổi của những học giả châu Âu (Đức, Hà Lan, Pháp và Áo), như H.Kimơlơ, R.A.Malơ, F.H.Vimơ, H.Huynxơman, Đ.Sengơha, v.v..
Mặc dù đã đạt được thành quả nhất định, song triết học so sánh Đông – Tây trong thế kỷ XX vẫn gặp phải không ít khó khăn về phương diện lý luận và phương pháp tiếp cận. Ở đây, trong phạm vi của bài viết, chúng tôi chỉ giới thiệu một cách tóm tắt một số vấn đề chủ yếu của phương pháp tiếp cận, như nguồn tư liệu của các nền triết học, sự phát triển mô hình so sánh, phương pháp so sánh các nền triết học, những đặc điểm và quy tắc của đối thoại triết học liên văn hóa.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trước hết, về nguồn tư liệu của các nền triết học khác nhau. Luận điểm cho rằng chỉ có châu Âu mới có các văn bản triết học đã hoàn toàn không còn đứng vững được nữa, bởi trên thực tế, người ta có thể đưa ra nhiều văn bản cổ hay tác phẩm về triết học ở Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Arập, Êtiôpia và ở Việt Nam hay nhiều nước khác. Mặt khác, nếu xuất phát từ quan niệm phương Tây về triết học, thì triết học so sánh, cho đến nay, vẫn chủ yếu tập trung vào các hình thức văn bản chứa đựng các tư tưởng triết học đã được lưu truyền, vì vậy nó đã không tính đến các tư liệu triết học truyền miệng, chẳng hạn như ở các dân tộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Những nguồn tư liệu này, trong nhiều trường hợp, thậm chí còn tỏ ra không hề thua kém các văn bản triết học về trình độ, nội dung triết lý hay ý nghĩa của nó đối với cuộc sống hiện thực của các tộc người, các dân tộc, các nước trên thế giới.
Thứ hai, vấn đề xây dựng mô hình so sánh. Có thể đưa ra một số cách triết lý khác nhau, như triết lý có tính hệ thống (trong các hệ thống triết học của Arixtốt, Đêcáctơ, Spinôda, Lépnít, Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen, v.v.); triết lý đối thoại (Xôcrát, Platon, Khổng Tử); triết lý châm ngôn (Nítsơ, Ađôrnơ hay Vitgensơtein hậu kỳ); và triết lý kể chuyện (Camuy, J.P.Xáctơrơ hay ở triết học nhiều nước châu Phi, châu Á), v.v.. Các cách triết lý này phải được coi là có giá trị như nhau. Câu hỏi đặt ra ở đây là: từ nền tảng của triết học Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây, liệu có thể phát triển một mô hình so sánh bao hàm tất cả các hình thức triết lý của con người hay không? Cố gắng trả lời câu hỏi này, một nhà Trung Quốc học và triết học người Bỉ – U.Libơrếch đã đề xuất cách tiếp cận và mô hình so sánh dựa trên cơ sở thu thập những cách thức và khả năng triết lý về mặt hình thức(10).
Thứ ba, về cách thức so sánh các nền triết học, mà nổi bật là phương pháp tiếp cận từ bên ngoài, từ cách nhìn nhận không phải của người trong cuộc. Đặc trưng chủ yếu của phương pháp tiếp cận này là: 1) sự gắn kết giữa quan điểm dân tộc học với quan điểm thực dân; 2) lối xem xét và mô tả có tính chất kinh nghiệm; 3) việc hạn chế triết học so sánh chỉ ở sự mô tả lịch sử các nền văn hóa; và 4) sự không rõ ràng của các tiêu chuẩn lựa chọn. Ý thức được sự hạn chế của phương pháp tiếp cận từ bên ngoài, các học giả đã dần chuyển sang phương pháp tiếp cận mới phù hợp hơn – giao lưu giữa các nền triết học, các nền văn hóa khác nhau và giữa các nhà triết học Đông – Tây. Đó là phương pháp hoặc con đường đối thoại giữa các nền triết học thuộc về các nền văn hóa khác nhau. Về thực chất, đây là phương pháp đối thoại gắn liền với triết học liên văn hóa và có thể coi là phương pháp tiếp cận mới, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Thứ tư, về những đặc điểm và quy tắc của đối thoại triết học giữa các nền văn hóa. Một cuộc đối thoại giữa các nền triết học chỉ có thể thực hiện được, nếu thỏa mãn các điều kiện sau đây: 1) sự đồng hạng hay đồng cấp của các bên đối thoại, mặc dù quan điểm của họ có thể khác nhau; 2) sự cởi mở của các cuộc đối thoại về kết quả đạt được; 3) phương tiện và phương pháp đạt được sự cảm thông không chỉ ở vấn đề thảo luận hay vấn đề ngôn ngữ; 4) một bên đưa ra ý tưởng mới mà bên kia không có. Cùng với những đặc điểm này, đối thoại triết học giữa các nền văn hóa cần tôn trọng các quy tắc sau đây: 1) người đối thoại cần phải có mặt, bởi vẻ mặt, cử chỉ, giọng nói đóng vai trò không nhỏ; 2) quy tắc lịch sự, tức là tôn trọng người đối thoại; 3) ngườiđối thoại phải là người có thẩm quyền đối thoại, tức là người có đủ điều kiện về tri thức và thực tế, đại biểu cho một nền văn hóa(11); 4) tinh thần dân chủ, tránh sử dụng các vị thế quyền lực dựa trên sức mạnh, địa vị, khả năng tài chính, giới tính, tuổi đời, tôn giáo, v.v..
Tóm lại, phương pháp tiếp cận của triết học so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu rất rộng. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi mới chỉ đưa ra một số phân tích ban đầu về phương pháp tiếp cận. Hướng nghiên cứu đầy triển vọng này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của nhiều học giả. Đối với giới triết học Việt Nam, điều quan trọng nhất là phải nhận thức đúng vai trò và ý nghĩa lớn lao của triết học so sánh Đông – Tây. Phương pháp tiếp cận của triết học so sánh Đông – Tây có thể mang đến một cách nhìn mới trong việc nhận thức lại vị thế của triết học Việt Nam trên bản đồ triết học thế giới./.
TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (HỘI NGHỊ BÀN TRÒN VỀ CUỐN SÁCH CỦA V.V.XÔCÔLỐP “NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC”) 2
A.A.Giutrơcốp: Trong nguồn tài liệu dành cho các vấn đề về khoa học lịch sử triết học, cách đây không lâu, một trong những đề tài có tính quyết định là vấn đề về mối quan hệ giữa hai cách tiếp cận trong quá trình nghiên cứu lịch sử triết học: cách tiếp cận theo lối mô tả – kinh nghiệm và cách tiếp cận theo hệ vấn đề – phạm trù. Hiện nay, các cuộc hội thảo về vấn đề này đã lắng xuống. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hiệu quả mà các cuộc hội thảo ấy đem lại không cao, chứ hoàn toàn không phải là do đối tượng nghiên cứu không được xác định rõ ràng. Chưa ai dám bốc đồng mà nói rằng, trong bất kỳ nghiên cứu nào về quá trình lịch sử triết học đều phải tính đến cả nhân tố cụ thể lẫn nội dung hệ vấn đề – lý luận và ý nghĩa của nó để từ đó, đi đến khẳng định phải sử dụng các nguyên tắc của cả hai cách tiếp cận nói trên. Điều dễ nhận thấy nhất là chất lượng của các nghiên cứu như vậy phần lớn phụ thuộc vào khả năng sử dụng các nguyên tắc đã nói ở trên và theo tôi, điều này đã được V.V.Xôcôlốp khẳng định trong cuốn sách của ông.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Theo tôi, một trong những giá trị chủ yếu của cuốn sách này chính là sự kết hợp một cách hài hoà và có hiệu quả hai cách tiếp cận đó (“theo thời đại và theo các vấn đề” như tác giả cuốn sách đã khẳng định trong một tiết của nó). Sự kết hợp này đã cho phép tác giả tránh được tính phiến diện và phân lớp những điểm mạnh của mỗi nhà tư tưởng. Để đánh giá chung về cuốn sách này, tôi xin nói một cách vắn tắt như sau: “tác giả đã nắm chắc tư liệu”, hiểu các tư liệu đó và không chỉ hiểu, mà còn có sự hiểu biết thấu đáo về các nguồn tư liệu gốc và sử liệu học, và đó chính là sự uyên bác về mọi phương diện của tác giả, v.v.. Từ đó, có thể xem công trình nghiên cứu của tác giả là mẫu mực, nếu không muốn nói đến điều là, từ lâu, tác giả đã xứng đáng được công nhận là nhà kinh điển, thậm chí còn là nhà “lập pháp” của khoa học lịch sử triết học nước ta. Tôi xin mạo muội đưa ra một nhận xét liên quan đến điều đó như sau: Sự hiểu biết sâu sắc về nguồn tư liệu lịch sử triết học, nói một cách nghiêm túc, là conditio sine qua non (điều kiện quan trọng) của mọi nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này. Tuy nhiên, nếu không chỉ nói một cách “nghiêm túc”, mà còn phải nói thật, thì hiện nay, điều kiện đó không phải lúc nào cũng được đáp ứng.
XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN
Trong cuốn sách của mình, V.V.Xôcôlốp đã thực sự nắm được một khối lượng tư liệu ô cùng lớn, nhưng ông không bị “hoà tan” trong đó và chính ông cũng không cho phép độc giả “chết ngập” trong “đống tư liệu” đó. Thêm nữa, V.V.Xôcôlốp còn hoàn toàn đúng, khi nhấn mạnh rằng, chính phong cách mô tả thuần tuý mà hiện đang phổ biến trong các sách giáo khoa ở nước ta đã làm hỏng lý thuyết và phương pháp giảng dạy. Nói một cách cụ thể, “chủ nghĩa giáo điều qua cách trình bày thường làm cho người ta phải học thuộc lòng một cách máy móc những thuật ngữ phức tạp và đa nghĩa. Điều này trái với bản chất của triết học”. Vì vậy, sách giáo khoa về lịch sử triết học cần phải là dạng sách “nhập môn lịch sử triết học”, nghĩa là dạng sách giúp cho độc giả tiếp cận được thực chất vấn đề – lý luận, nắm được nội dung và bản chất của lịch sử tư tưởng triết học, đem lại cho họ thói quen đọc và suy nghĩ độc lập về nguồn tư liệu cần nghiên cứu và chỉ như vậy, độc giả mới có tư duy độc lập.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Để giải quyết nhiệm vụ này, V.V.Xôcôlốp đã cố gắng giới thiệu quá trình lịch sử triết học như một chỉnh thể. Thực hiện nhiệm vụ này, trước hết, ông đã vạch rõ trong quá trình đó hệ những vấn đề cơ bản mà theo ông, là những vấn đề hoặc các mô hình mẫu “các quan hệ chủ – khách thể”. Trong chính vấn đề này, ông đã xem xét “cơ sở lý luận sâu xa của nó đến mức tối đa”, bởi đó là cái quy định toàn bộ tiến trình phát triển của quá trình lịch sử triết học “cho đến tận thời đại ngày nay”. Từ việc xem xét vấn đề này, ông đã cố gắng phân tích, tìm hiểu và giải thích cho độc giả thấy rõ toàn bộ nguồn tư liệu hiện có và đã được giới thiệu trong cuốn sách của mình.
Vấn đề này đã được V.V.Xôcôlốp giải quyết một cách cụ thể trong cuốn sách của ông với tư cách là nghiên cứu cơ bản. Sau đây, tôi sẽ đề cập đến vấn đề này, còn bây giờ, tôi không thể không nói đến sự dũng cảm và thậm chí là mạo hiểm của tác giả. Đó là điều mà ông lựa chọn và nói chung, đã thể hiện cách tiếp cận nó trong cuốn sách. Chẳng cần phải là một nhà tiên tri hay phải tiến hành một cuộc thăm dò dư luận, chúng ta cũng có thể khẳng định một cách tự tin rằng, cách tiếp cận như vậy đã gây ra sự nghi vấn không nhỏ, thậm chí là sự phản đối ở nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác giảng dạy môn lịch sử triết học. Song, đó cũng là số phận của bất kỳ ý định nào muốn đưa ra một định nghĩa chặt chẽ về đối tượng chủ yếu hoặc về vấn đề cơ bản của triết học và hơn nữa, còn đặt nền móng cho nghiên cứu quá trình lịch sử triết học nói chung (ở đây, tôi chưa nói đến điều là, hiện nay, việc phủ định một cách sạch trơn sự tồn tại đối tượng của triết học cũng như cách tiếp cận đối tượng đó đang trở thành “mốt”).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi cho rằng, đóng góp thực sự của V.V.Xôcôlốp là ở vấn đề mà ông chọn làm xuất phát điểm, bởi nó hoàn toàn không làm giảm tính chất hay ý nghĩa của một giả thuyết mang tính gợi mở, cũng không biến giả thuyết đó thành chân lý hoàn toàn đầy đủ hoặc tối cao. Ông cũng không có ý định đưa độc giả đến một ảo tưởng về sự nắm bắt ý nghĩa của triết học và mục đích cuối cùng của quá trình lịch sử triết học và hơn nữa, cũng không làm cho độc giả vướng vào ảo tưởng đó. Những nỗ lực của ông, trước hết đều hướng vào sự kiểm nghiệm trên thực tế giả thuyết của mình, hướng nó vào việc thử nghiệm nguồn tư liệu hiện có của lịch sử triết học, vào việc khẳng định tính hiệu quả về phương diện phương pháp luận của nó đối với việc nghiên cứu và suy ngẫm về tư liệu đó. Nguồn tư liệu này không chỉ được ông tái tạo lại một cách thận trọng và tỉ mỉ, mà còn tránh được sự giản đơn hoá có thể xẩy ra, tránh được sự bóp méo hoặc cố ý bỏ qua nó và hơn nữa, còn tránh được những kiến giải dẫn đến việc xuyên tạc, hiện đại hoá nó một cách gượng ép, v.v..
Tuy nhiên, những giá trị nêu trên trong cuốn sách V.V.Xôcôlốp lại trở thành khiếm khuyết của chính nó mà tôi nhận thấy ở tính mô tả không phải chung chung, mà ở cách phát hiện và kiến giải chính vấn đề quan hệ chủ – khách thể trong một học thuyết triết học này hay học thuyết triết học khác, ở thời đại này hay thời đại khác. Tác giả luôn đưa ra sự hiện diện của vấn đề ở nhà tư tưởng này hay nhà tư tưởng khác của quá khứ, vạch rõ sự hiện diện của nó trong việc cấu thành học thuyết của nhà tư tưởng và luôn diễn đạt nó bằng những thuật ngữ không mấy thích hợp, hoặc che giấu nó bên trong hệ thống khái niệm mà đôi khi, mang tính đặc thù, nhân tạo và về phương diện lịch sử thì đó là những hệ thống luôn chịu sự quy định và hạn chế nào đó. Hơn nữa, chính vai trò phổ biến và xác định của vấn đề nêu trên, hoặc như tác giả thường nói, cái mà mỗi nhà tư tưởng, mỗi trường phái hay khuynh hướng triết học, kể cả quá trình lịch sử triết học nói chung phải có, vẫn chỉ là cái bóng hoặc dường như đã được nguỵ tạo. Nói cách khác, cách tiếp cận chủ – khách thể đôi khi được tác giả thể hiện không chỉ là cách tiếp cận vấn đề, mà còn là cách tiếp cận đề tài và thậm chí là cách tiếp cận mô tả, mặc dù nó được thực hiện trong khung cảnh thu nhỏ của một nội dung cụ thể.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Một trong những nguyên nhân của việc này, theo tôi, là cách tiếp cận mà ở một mức độ nào đó, còn mang tính mô tả đối với chính vấn đề quan hệ chủ – khách thể. Để tránh tính phiến diện và bất cập trong việc nhận thức nó, tác giả đã đưa ra một định nghĩa cực rộng và do vậy mà mờ nhạt, đồng thời tước mất ý nghĩa lý luận và tính chặt chẽ của nó. Mặt khác, định nghĩa về triết học lại tỏ ra quá trừu tượng và không xác định: triết học được giải thích như là “tổng hoà rộng lớn các quan hệ chủ – khách thể ”, trong đó “các quan hệ nhận thức – thực tế của con người được thừa nhận cùng với hiện thực tự nhiên và xã hội đối lập với nó, đồng thời thể hiện nhu cầu hoạt động của cả trí óc, con tim lẫn thân xác của con người”. Từ đó, chính khái niệm triết học đã trở thành một khái niệm mà người ta có thể nhập nó vào những khái niệm còn trừu tượng hơn như “hệ thống tri tín”, hoặc “thế giới quan được hệ thống hoá một cách chặt chẽ nhất, đã được hợp lý hoá một cách tối đa nhất của thời đại mình”. Thật khó có thể tranh luận với các định nghĩa thuộc dạng như vậy, nhưng theo tôi, chúng đã biến cách tiếp cận vấn đề thành cái gì đó hoàn toàn mù mờ và về căn bản, đã làm mờ hoặc làm giảm ý nghĩa phương pháp luận và gợi mở của chính khái niệm quan hệ chủ – khách thể; hơn nữa, còn tước mất chức năng tái cấu trúc lý luận và nhận biết quá trình lịch sử triết học của nó.
Vả lại, một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng, điều đáng trân trọng chính là ý định của V.V.Xôcôlốp – tiếp cận tới việc phân tích quá trình lịch sử triết học từ sự xem xét các vấn đề căn bản hoặc chủ yếu của quá trình đó, sau nữa là đến với chính việc suy tư lý luận dưới dạng thuần tuý triết học. Đó là chỗ mà tôi không thể không nhận thấy sự uyên bác, chín chắn của tác giả cuốn sách và là cái làm cho cuốn sách này có thể sử dụng như một giáo trình không chỉ cho sinh viên, mà cho cả những học trò theo đúng nghĩa rộng của từ dùng để gọi chung cho tất cả chúng ta, không phụ thuộc vào trình độ đào tạo, giáo dục, tuổi tác và danh vị.
- đây, tôi không có điều kiện để đưa ra nhận xét về toàn bộ cuốn sách. Tuy vậy, tôi cũng muốn có vài ý kiến về chương dành cho Cantơ. Mặc dù phần này ngắn, song nó vẫn cho chúng ta thấy sự trình bày và đánh giá hoàn toàn rõ ràng, chính xác về di sản triết học của Cantơ, dẫu là ở đây, vẫn còn có những “thiếu sót nho nhỏ”. Quả là qua loa và dường như là sơ sài, khi tác giả đề cập đến khái niệmvật tự nó của Cantơ. Cái được xem là có tầm quan trọng đặc biệt là khi nói đến chức năng của “vật tự nó” với tư cách nguồn gốc của cảm giác, tức là ý nghĩa khách quan của nó, thì tác giả đặt sang một bên ý nghĩa của nó với tư cách nguồn gốc của kinh nghiệm nội tại mà nói một cách chính xác hơn, của khái niệm linh hồn hoặc chủ thể tự thân. Nói cách khác, khái niệm “vật tự nó” ở Cantơ không chỉ mang hai ý nghĩa cơ bản là cái chủ quan và cái khách quan, mà còn bao hàm cả vấn đề mối quan hệ chủ – khách thể. Mối quan hệ này, theo tôi, thực sự là vấn đề mang tính xuất phát, đồng thời quy định toàn bộ triết học Cantơ. Đáng tiếc là, để vấn đề này trở thành vấn đề xuất phát và mang tính quy định của cuốn sách, thì tác giả lại gạt nó sang một bên.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
V.V.Xôcôlốp đã hoàn toàn đúng khi chống lại việc kiến giải triết học Cantơ như là triết học bất khả tri, đồng thời nhấn mạnh chứng cứ cho rằng, Cantơ đã luậnchứng một cách trực tiếp cho luận điểm đối lập về tính vô hạn của nhận thức con người. Thiết nghĩ, tác giả đã không hoàn toàn chính xác khi sử dụng luận cứ về tính đa nghĩa của thuật ngữ “aufheben” mà Cantơ đã sử dụng trong mệnh đề của ông về tri thức. Thuật ngữ đó được hiểu, khi thì là “hạn chế” hoặc “loại bỏ”, khi thì là “đề cao” hoặc “nâng lên” để dành chỗ cho niềm tin. Chưa cần phải nói đến tính vô nghĩa quá rõ biểu hiện trong việc sử dụng phương án dịch thứ hai của từ này là “đề cao”, tôi vẫn có thể cho rằng, việc dịch như vậy là không đúng đối tượng, bởi trong câu văn đó, Cantơ nói về tri thức siêu hình học, tức tri thức ảo và kỳ vọng đạt được tri thức ảo mang tính giáo điều về Chúa, về sự bất tử của linh hồn, v.v.. Nói tóm lại, Cantơ đã phê phán và chống lại toàn bộ tri thức ảo đó.
V.V.Xôcôlốp: Tôi muốn nhấn mạnh rằng, cuốn sách đang được thảo luận là cuốn sách mà tôi đã ấp ủ từ lâu, xuất phát từ sự không hài lòng với phần lớn các sách giáo khoa và giáo trình về lịch sử triết học mà những tác giả của chúng đã nhìn nhận ý nghĩa của việc trình bày chỉ cốt để truyền đạt một cách chính xác (một số sách còn tô vẽ thêm) các tư tưởng triết học, xem xét các tư tưởng ấy về phương diện biên niên sử và ít nhiều có và chú trọng đến chứng cứ tác gia, tác phẩm. Đương nhiên, cách xử lý tư liệu như vậy được xem là hợp lý và thậm chí là cần thiết đối với sinh viên, đối với tất cả những ai mới bắt đầu làm quen với triết học. Điều đó, có thể nói, là bước đi đầu tiên để thâm nhập vào triết học. Song, làm như vậy cũng không thể khá lên được, bởi việc liệt kê các tư tưởng triết học, các phạm trù, thậm chí còn khái quát hoá ở một mức độ nào đó về phương diện phương pháp luận (lúc nào cũng bám sát “cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật”, phép biện chứng và phép siêu hình) cũng chẳng đi vào chiều sâu của triết học, cũng như tới “sự thăng hoa” của những tư tưởng được hình thành trong triết học. Những công trình thuộc loại như vậy đã không chỉ khái quát tư liệu, mà còn cải biên tư liệu đó, như các công trình của những tác giả nổi tiếng, chẳng hạn Vinđenbanđơ và Rátxen, các tác giả này quả thực không có ý định viết sách giáo khoa. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh rằng, cần phải loại bỏ cụm từ “sách giáo khoa” ra khỏi từ ngữ của triết học. T.I.Ôiderơman đã đúng khi khẳng định rằng, không nên gọi cuốn sách của tôi là sách giáo khoa, càng không nên gọi là “kinh điển”. Có lẽ cần phải thanh minh thêm rằng, tôi đã sử dụng những cơ hội để thể hiện. Đó là nhân dịp kỷ niệm 250 năm thành lập Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva và quyết định của Hội đồng khoa học về việc xuất bản các sách giáo khoa tốt nhất từng được xuất bản trước đây và những cuốn giáo khoa mới để kỷ niệm sự kiện đó. Thực ra, trong toán học và trong hàng loạt các bộ môn khoa học tự nhiên khác, người ta đã tái bản và chỉnh sửa nhiều cuốn giáo khoa (theo tôi biết, đã có hơn 150 cuốn). Số các sách giáo khoa về khoa học nhân văn cũng không ít, nhưng ngoài cuốn của tôi, còn có bốn cuốn nữa về triết học. Dĩ nhiên, trong trường hợp này, thật khó lý giải về con số quá ít ỏi đó. Điều đáng tiếc là, hiện nay, không thể tránh được áp lực của cơ chế thị trường, nó làm cho khách hàng thích mua “sách giáo khoa” hơn.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Xin trở lại cuốn sách của tôi. Theo tôi, nó đã “minh chứng” một cách đầy đủ cho ý kiến của N.S.Kirabaép rằng, đây là một cuốn sách thuộc “thể loại mới”, phản ánh nội dung không khớp với tên ngoài bìa của nó. “Thể loại” này là do tôi nghĩ ra và nó được hoàn thành bằng trí lực và phong cách viết theo mạch vấn đề dựa trên mô hình mẫu là chủ – khách thể. Tôi đã cố gắng làm rõ tính gợi mở tích cực của nó để tiếp cận tối đa tới những suy tư của con người hoạt động, con người nhận thức (tức con người mà theo tôi hiểu, trong tính nhất quán phù hợp với mô hình mẫu chủ – khách thể), xem con người đó thể hiện mình như thế nào cả trong văn cảnh thế giới quan triết học lẫn nền văn minh. Việc trình bày như vậy rõ ràng là mang tính định hướng mà trước hết, cho những người chỉ muốn khám phá lịch sử triết học, đặc biệt là những người đã từng biết đến lịch sử triết học “ở những bước tiếp cận đầu tiên”. Dĩ nhiên, giữa những hạng bậc độc giả không hề có cái gọi là bức tường ngăn cách nào cả.
Diễn giải theo lối triết học mối quan hệ chủ – khách thể không chỉ đem lại khả năng làm rõ toàn bộ hệ vấn đề về quá trình lịch sử triết học một cách đáng kể trong tính chính thể của nó, tức là hệ vấn đề được cụ thể hóa qua việc điểm lại phương diện tư tưởng – lý luận hàng nghìn năm, mà còn chỉ ra mối liên hệ hạn chế của nó với các thời đại văn minh – thế giới quan. Thế giới quan đó còn lâu mới trùng hợp với sự phân loại hình thái – biên niên sử và kinh tế – xã hội, đặc biệt là với sự phân loại mang tính đặc trưng của truyền thống mácxít – lêninít. Đó là những vấn đề thật sự khó khăn, gây cản trở không ít cho sự nhập môn lý thuyết đại cương mà ở đó, người ta đề cập đến vấn đề hoạt động nhận thức có hiệu quả của con người, vấn đề thời gian. Tiến trình của thời gian bị quy định bởi “sự dồn nén” về phương diện tinh thần(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
- trí tuệ và sức lực của con người, bởi tính đa dạng của chủ thể tập thể – cá nhân trong những khát vọng duy lý và phi duy lý của nó, bởi mối quan hệ của các hình thái hệ tư tưởng và bởi chính triết học với sự phân chia và tích hợp của chúng, v.v..
Sự phân tích theo vấn đề của quá trình lịch sử triết học không thể tiến hành ở mức độ mô tả “tác gia”, dù đó là những nhân vật đặc biệt nổi tiếng (về cơ bản, chỉ được giới thiệu trong chương trình thảo luận). Song, những nhà triết học đỉnh cao, đặc biệt là Platôn, Arixtốt, Plôtin, Cantơ hoàn toàn “không lẫn được” trong hệ vấn đề nghiên cứu và họ cũng đã được giới thiệu trong một khối thống nhất (họ luôn được xác nhận qua tiểu sử tóm tắt và các công trình cụ thể), cả trong những vấn đề gay cấn nhất, họ cũng được giới thiệu như vậy. Cũng cần phải hình dung rằng, những nhà triết học ít nổi tiếng hơn, như Bôêxi, Êriugen, Nicôlai Cudanxki, đã không được đưa vào nhóm những nhà triết học có niên đại gần nhau.
Trong bối cảnh như vậy thì nhận xét của viện sĩ T.I.Ôiderơman lại trở nên khó hiểu, khi cuốn sách này dành cho Platôn 35 trang, Arixtốt 49 trang, còn các nhà triết học nổi tiếng trong thời Cận đại, như Đêcáctơ, Xpinôda, Hốpxơ, Lépnít, Lốccơ và những nhà triết học khác ít nổi tiếng hơn của thời đại đó lại chỉ được giới thiệu có 20 trang. Kỳ thực, tất cả các nhà tư tưởng ngang tầm thời đại được đề cập tới (cả số ít nổi tiếng hơn) của thế kỷ XX và chủ yếu là ở thế kỷ XVII đã được giới thiệu đến 90 trang. Song, những tác động căng thẳng, có liên quan đến nhau của họ về tư tưởng nhận thức luận, bản thể luận, thần luận, luân lý và xã hội lại chỉ cho phép trình bày về họ trong sự thống nhất mang tính xác thực nào đó, mặc dù sự thống nhất này mang tính đa nghĩa.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Khi làm rõ những hiểu biết của mình đối với một cuốn sách giáo khoa về lịch sử triết học, T.I.Ôiderơman đã đề xuất viết nó theo cá nhân các nhà triết học, cốt để sinh viên nắm được các học thuyết của những nhà triết học đó, v.v.. Chính tôi cũng đã xuất bản những cuốn giáo khoa như vậy và nói cho đúng hơn, là những cuốn giáo trình, nhưng bây giờ, khi thấy mình đã có khả năng nghiên cứu sâu hơn, nên tôi đã cố gắng trình bày theo vấn đề một cách thuần tuý. Những cuốn giáo trình viết về cá nhân nhà tư tưởng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, “thực chứng” đối với tôi đã quá xa rồi. Bên cạnh những nhà triết học “thuần tuý”, tôi còn đề cập đến cả những nhà tư tưởng từng có những ý niệm tổng quát, mặc dù họ không thuộc về một hệ thống triết học chặt chẽ (đó là Hipôcrát, Phukiđít và một loạt các nhà triết học thời Phục hưng, như Bein, Bôscôvích, v.v.).
Một ý kiến không tán thành khác của T.I.Ôiderơman (và không chỉ của ông) có liên quan đến sự hoài nghi, nếu đó không phải là sự bác bỏ, là định nghĩa triết học như “một hệ thống tương đối phức tạp của tri tín” mà ông cho là “một định nghĩa triết học hoàn toàn mang tính thần học”. Ở đây, tôi xin nhắc lại rằng, vào thời mácxít – xôviết có hai từ đặc biệt kiêng kỵ về mặt hệ tư tưởng là “Chúa” và “niềm tin”. Do việc tuyên bố một cách dứt khoát rằng, chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong ở nước ta (còn chủ nghĩa cộng sản thì đang được xây dựng) và đó đều là các học thuyết mang tính khoa học tuyệt đối, nên “niềm tin” bị đẩy vào lĩnh vực tôn giáo. Tôi cho rằng, viện sĩ T.I.Ôiderơman là người mang tàn dư của tư tưởng mácxít, nên những phán đoán mà ông đưa ra hiện đang dẫn khái niệm “tri tín” tới lĩnh vực thần học. Thêm nữa, toàn bộ lịch sử triết học khi mới được bắt đầu, ít nhất cũng là từ Platôn, đều nhấn mạnh ý nghĩa nền tảng của khái niệm “niềm tin” (pistis – khác với “khoa học” – episteme) trong lĩnh vực nhận thức. Và, chính việc tôi đưa ra trong cuốn sách của mình cách hiểu về bản chất con người với tư cách, một là, con người hoạt động và hai là, con người nhận thức, đã khiến cho niềm tin cùng với bản năng giống loài của con người được đặt ở vị trí cao hơn so với tri thức với tư cách hệ quả kinh nghiệm – trí tuệ của chính con người. Không chỉ có những nhà kinh nghiệm học, mà cả những nhà duy lý, dù ở mức thấp hơn, đều thừa nhận tính triệt để đó của hoạt động con người.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Đương nhiên, chúng ta không nên quên ranh giới phân chia giữa niềm tin mang tính nhận thức luận với niềm tin mang tính tín ngưỡng luận. Như đã biết, một người có tư duy sâu sắc như Hium đã từng đặt đối lập một cách rõ ràng tính đa dạng của niềm tin mang tính nhận thức luận (belief) với tính đa dạng của niềm tin mang tính tín ngưỡng luận (faith). Thật vậy, trong tiếng Nga (“Bepa”) và trong tiếng Đức (“Glaube”), cả hai nghĩa đó của khái niệm “niềm tin” đã hoà vào nhau. Phân biệt về mặt tâm lý không khó, nhưng sự phân biệt “tôi đang tin” và “tôi đã tin” quả thực là khó hơn, bởi đây là sự phân biệt mang tính nhận thức luận và chỉ được xác định bởi những đặc trưng ở các khách thể của chúng. Các đại biểu của thuyết đức tin trong Giáo hội Thiên chúa giáo đôi khi còn phủ nhận hoàn toàn yếu tố nhận thức luận của niềm tin. Chẳng hạn Téctuliêng đã đưa ra câu nổi tiếng: “tôi tin, bởi điều đó là vô lý”. Phần lớn trong số họ, đặc biệt là Ôguýtxtanh và sau đó là Tomát Đacanh, cũng như phần lớn các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo đã luận chứng cho tính ưu việt của niềm tin hoạt động mà về nguyên tắc, mỗi con người ít nhiều có hiểu biết, dù là lơ mơ, đều tham gia vào đó. Về sau, Ansenmơ Kentơberixki, người tự nhận mình là ông tổ của nền kinh viện Tây Âu, đồng thời cũng là người đưa ra nguyên tắc “tin (credo) để hiểu biết”, đã luận giải con đường từ niềm tin mang tính nhận thức luận đến tín ngưỡng thần luận (còn được coi là “sự chứng minh về phương diện bản thể luận” cho sự tồn tại của Chúa hay giáo lý về Tam vị nhất thể).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Khi phủ nhận khái niệm “tri tín”, T.I.Ôiderơman cho rằng, “tín niệm” có thể là “khoa học”, “phi khoa học” và “phản khoa học”. Tín niệm “khoa học” và “phi khoa học”, về thực chất, là đồng nghĩa với “tri tín”. Còn tín niệm “phản khoa học” chỉ là tín niệm phàm tục (giá trị của nó, theo Cantơ, chỉ đáng một đồng chinh (ducat) – đơn vị tiền tệ của Italia trước đây, tương đương với 1 chỉ vàng – ND). Tác giả của “Phê phán lý tính thuần tuý” đã giải thích “niềm tin mang tính luận thuyết” như một trong ba tín niệm – bên cạnh niềm tin giáo điều mà người ta còn gọi là niềm tin phàm tục là niềm tin đạo đức mà về thực chất, là một dạng cơ bản của niềm tin nhận thức. Có thể gọi nó là “tín niệm”. Niềm tin thần luận, cụ thể là niềm tin tôn giáo, đã bị Cantơ đưa hẳn sang lĩnh vực lý tính thực tiễn.
Khi luận chứng cho thuật ngữ “tri tín”, chúng ta cần xem xét cả sự phản đối của T.I.Ôiderơman. Nội dung cơ bản của thuật ngữ này đã được Cantơ trình bày trong dẫn luận cho lần xuất bản thứ hai tác phẩm “Phê phán lý tính thuần tuý”. Sự phản đối của T.I.Ôiderơman xoay quanh động từ “aufheben”. Trong bản dịch sang tiếng Nga của N.Xôcôlốp (năm 1902), từ đó được dịch như sau: “Cantơ buộc phải gạt bỏ tri thức để dành chỗ cho niềm tin”. Bản dịch tốt nhất của V.A.Giutrơcốp sang tiếng Nga tác phẩm vĩ đại này (Mátxcơva, 1998) cũng đã dẫn ra nghĩa của từ này theo các thứ tiếng Anh – Pháp – Italia – Latinh. Nói chung, theo các ngôn ngữ này, “aufhaben” đều có thể dịch là “gạt bỏ” hoặc thậm chí, “tiêu diệt” tri thức (to deny, abolish knowledge, abolir la science, v.v.). Ở đây, có nhiều cách hiểu khác nhau về niềm tin. Tuy nhiên, theo tôi, không có sự xuyên tạc nào trong việc truyền tải tư tưởng của Lốccơ, người đề xuất quan điểm “hạn chế tri thức”, và ngay cả Gulưnga, khi biên soạn và cho xuất bản thành tám tập toàn bộ các tác phẩm của Cantơ, cũng đã đưa ra phương án “đề cao” tri thức (bởi thuyết bất khả tri không có nghĩa là sự phủ định nào đó về toàn bộ tri thức, nhưng đó lại chính là sự hạn chế tri thức), đồng thời cũng “loại bỏ” cả tri thức nữa. Chính điều này đã cho thấy tác giả của “Phê phán lý tính thuần tuý”, khi đề cao một cách có giới hạn tri thức đối tượng, tức tri thức khoa học được phát sinh từ lĩnh vực lý trí – cảm tính, theo tôi, đã đồng thời nhấn mạnh sự tất yếu phải dành một vị trí cho niềm tin mang tính nhận thức luận (một trong những bản dịch sang tiếng Anh của V.Giutrơcốp đã sử dụng nghĩa của từ “belief”, ở chỗ khác là “faith”, trong tiếng Pháp, những từ này tương ứng với các từ “croyance” và “foi”; tôi cho rằng, thuật ngữ thứ hai trong tiếng Anh và tiếng Pháp là không đúng). Không hiểu tại sao T.I.Ôiderơman lại khẳng định rằng, ý định đích thực của Cantơ là cốt để “gạt bỏ không phải tri thức, mà là tri thức ảo, gạt bỏ siêu hình học”. Theo tôi, T.I.Ôiderơman đã mắc phải sai lầm mà một thời, người theo phái Cantơ trẻ ở Nga là V.I.Veđenxki đã mắc phải. Về nguyên tắc, V.I.Veđenxki đã gán cho Cantơ tham vọng xoá bỏ siêu hình học. Trên thực tế, tham vọng của tác giả “Phê phán lý tính thuần tuý” là ở chỗ, xích dần siêu hình học tới khoa học bằng khả năng có thể có và điều đó đã đạt được trên thực tế.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi cho rằng, thuật ngữ tri tín, về nguyên tắc, có thể sử dụng cho toàn bộ triết học (chẳng lẽ chủ nghĩa thực chứng lại là một ngoại lệ, đặc biệt là chủ nghĩa thực chứng lôgíc). Vì vậy, sau phần nhập môn lý luận chung, bao gồm cả vấn đề chủ – khách thể trong tương quan với cục diện của nó ở thời đại tiền văn minh cuả loài người, là những nghiên cứu đặc thù về vấn đề này trong bối cảnh thế giới thần thoại của nền văn minh Địa Trung Hải (gồm cả nền văn minh Hi Lạp cổ đại).
Truyền thống mácxít – lêninít từng ngự trị nhiều năm ở nước ta (và ở cả các nước xã hội chủ nghĩa khác) trong việc luận giải sự xuất hiện của triết học mà nhìn chung, thiên về “chủ nghĩa thực chứng” (được bổ sung thêm bằng học thuyết của Heghen và của Ăngghen), đã tìm mọi cách để nhấn mạnh yếu tố tri thức và trên thực tế, đã bỏ qua thần thoại với tư cách “thế giới quan tiền khoa học” mà thuộc tính vốn có của nó là niềm tin. Đúng như vậy, một thời gian dài, chúng ta đã trích dẫn những câu nói nổi tiếng nhưng lại không rõ ràng của Mác (từ bốn tập “Tư bản”) để cho rằng, “triết học ngay từ đầu đã được hình thành trong khuôn khổ của hình thái ý thức thần thoại”, một mặt, đã gạt bỏ tôn giáo, và mặt khác, tiếp tục vận động “trong lĩnh vực tôn giáo đã được duy tâm hoá…”. Song, việc nghiên cứu kèm theo quan điểm riêng về hệ vấn đề “từ thần thoại đến triết học” lại do chính các nhà lịch sử văn hoá cổ đại và triết học phương Tây thế kỷ trước thực hiện, đó là Korford, Neslơ (không hiểu tại sao
T.I.Ôiderơman lại xem thường họ), và những người khác, như Gigôn, Verơnan, v.v.. Việc làm mềm sự áp đặt mang tính tư tưởng hệ của giới triết học nước ta trong những năm 60 – 70 đã thúc đẩy một số nhà nghiên cứu lịch sử triết học cổ đại ở nước ta tiến hành phân tích hệ vấn đề siêu phức tạp này. Đã từng có các cuốn sách với nội dung tốt, trong số đó, đúng như nhận xét của T.I.Ôiderơman, là những cuốn sách của A.N.Tranưsép, người vừa mới qua đời cách đây không lâu (mà cuốn quan trọng nhất trong số đó là “Triết học tiền Êgiê”, năm 1970). Tôi đã từng làm việc với ông ở bộ môn lịch sử triết học nước ngoài của MGU trong nửa thế kỷ. Tôi động viên mãi ông mới bảo vệ luận án tiến sĩ theo đúng hệ đề tài này bằng những bài báo vào năm 1983. Tôi đã hiệu đính công trình lớn nhất của ông (giáo trình “Triết học thế giới cổ đại”), tái bản đến ba lần. Bằng tất cả sự trân trọng đối với các công trình của ông, tôi vẫn cho rằng, ông vẫn không vươn tới mô hình chủ – khách thể trong việc suy tư về “Lược khảo triết học” (một trong những cuốn sách của ông được xuất bản năm 1982). Tôi cũng đã cố gắng làm rõ thế nào là tính đồng nhất của bản nguyên chủ thể và khách thể trong thần thoại và “triết học khởi thuỷ” (hình thái xã hội – nhân loại), tư tưởng đã được triết học hoá, được mở rộng tới tính song hành của khởi thuỷ hữu cơ và cơ học, tập thể và cá nhân, trí tuệ quý tộc và nhân cách sáng tạo mà nhà triết học thực hiện trong sự tiến bộ về thế giới quan ở các nền văn minh cổ đại.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trở lại vấn đề tri tín trong nhận thức luận tiên nghiệm của Cantơ theo văn cảnh quan hệ của các công thức được ông sử dụng rộng rãi là “vật tự nó” (“õồựỹ õ ủồỏồ”) và “vật tự bản thân nó” (“õồựỹ ủàỡợ ùợ ủồỏồ”). Các công thức này làm chúng ta nhớ tới cuộc đối thoại cách đây 30 năm giữa một cặp là T.I.Ôiderơman và Narơxki với một cặp khác là Gulưnga và Xôcôlốp. Cặp đầu khẳng định tính đồng nhất giữa các công thức đó, còn cặp thứ hai nhấn mạnh một vài khác biệt căn bản giữa chúng. Cho đến nay, T.I.Ôiderơman vẫn một mực bảo lưu ý kiến phản bác đó. Song, chính tôi cũng không thay đổi quan điểm của mình, bởi theo tôi, “vật tự bản thân nó” chỉ sự vật mà từ đó, hoạt động nhận thức được bắt đầu và theo đó, thế giới được chúng ta nhận thức một phần (đó chính là đặc trưng của thuyết bất khả tri), mặc dù chính các sự vật đó tồn tại trong thế giới “vật tự nó” không thể biết. Con người không thể biết hết được và vì thế mà tồn tại như “vật tự nó”. Tính bất khả tri tuyệt đối là vốn có không chỉ đối với bộ ba ý niệm về lý tính tiên nghiệm. Tuy nhiên, ở đây, luận cứ mà tác giả của “Phê phán lý tính thuần tuý” đưa ra lại dựa trên mối quan hệ giữa tính không thể biết và tính có thể biết của chúng để chứng minh cho chức năng điều chỉnh của chúng trong mối quan hệ với các phạm trù lý trí. Trên thực tế, sự khác biệt giữa “vật tự bản thân nó” và “vật tự nó” là một trong những cách trình bày cơ bản trong nhị nguyên luận về nhận thức của Cantơ – một ý niệm vĩ đại của thuyết bất khả tri.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong văn cảnh diễn giải của phái Cantơ, T.I.Ôiderơman cũng đã đưa ra những nét đặc trưng trong một số công trình nghiên cứu về Cantơ ở nước ta. Ông đã đúng khi nhận xét về nội dung cuốn sách nhỏ của V.Vaxiliép – “Những trang cuối của siêu hình học Cantơ” (năm 1998). Đó là một công trình phân tích thận trọng mà về cơ bản, đã làm rõ sự hình thành các phạm trù lý trí trong mối quan hệ của chúng với kinh nghiệm không – thời gian (chủ yếu là theo “Hình thái và nguyên lý của thế giới cảm xúc và tư biện”). Tôi đã được đọc cuốn sách này và có nhắc tới trong phần tài liệu tham khảo ở cuốn sách của mình, nhưng tôi hoàn toàn không trích dẫn nó trong văn bản, điều này trái với khẳng định dứt khoát của T.I.Ôiderơman. Cũng đã có một công trình nghiên cứu khác rất tỉ mỉ của Guram Tépđátde – “Immanuin Cantơ. Những vấn đề triết học lý luận” (năm 1979). T.I.Ôiderơman cũng đã có ý kiến cho rằng, sinh thời, A.V.Gulưnga “biết triết học… chưa sâu”. Mặc dù, thoạt đầu, A.V.Gulưnga xác định các vấn đề mỹ học chưa chính xác, nhưng trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức, ông đã đạt tới một trình độ rất cơ bản. Với sự am hiểu tiếng Đức, ông không chỉ cho xuất bản tám tập sách được dịch căn bản nhất bằng tiếng Nga các tác phẩm quan trọng của người Đức khổng lồ (Cantơ – ND), với những bản dịch mới và đã được rà soát lại, mà còn là tác giả của ba cuốn tiểu sử mang nội dung lý luận về Cantơ, Hêghen và Selinh, đã được dịch ra các tiếng phương Tây (riêng cuốn đầu tiên còn được dịch ra tiếng Trung Quốc, các bản dịch ra tiếng Đức đều có kèm theo chú giải). A.V.Gulưnga còn có hai cuốn sách đã được xuất bản như một minh chứng cho năng lực triết học của mình là “Triết học cổ điển Đức” (năm 1986 và 2001). T.I.Ôiderơman còn không đúng khi nhận xét về V.Ph.Asmút. Mặc dù sách của V.Ph.Asmút được “viết vào thời khác”, nhưng những hiểu biết nổi bật của ông về nguồn tư liệu và lôgíc truyền thống đã cho phép ông tiến hành việc phân tích một cách thấu đáo toàn bộ triết học Cantơ trong cuốn “Immanuin Cantơ” (1973). Cuốn sách này, theo tôi, cho đến nay vẫn còn là cuốn sách bất hủ trong các công trình nghiên cứu bằng tiếng Nga về Cantơ. Không thể không nhắc tới Lời tựa rất hay của V.Ph.Asmút qua tính khúc chiết của sự phân tích lý luận cho tập 5 bộ “Các tác phẩm” của Cantơ (“Phê phán năng lực phán đoán”, năm 1965). Đó là chúng ta còn chưa kể đến các công trình nghiên cứu của ông về mỹ học Đức thế kỷ XVIII.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi cảm thấy ngạc nhiên trước khẳng định mang tính cục bộ của T.I.Ôiderơman về cái gọi là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà chính ông cũng đã từng viết khá nhiều về cuộc đấu tranh này. Không hiểu sao giờ đây, chính ông lại cho rằng, cuộc đấu tranh đó là do Lênin bịa ra. Một thí dụ duy nhất về “cuộc chiến” đó được T.I.Ôiderơman xem xét là cuộc luận chiến giữa Hốpxơ (cùng với Hốpxơ là Gaxenđi) và Đềcáctơ xoay quanh “Suy tư siêu hình” của Đềcáctơ. Trên thực tế, đó là cuộc luận chiến giữa những người theo thuyết duy cảm (và kinh nghiệm) với phía bên kia là những người theo thuyết duy lý. Thực ra, cuộc “đấu tranh” này do Ăngghen “phát hiện ra” (mặc dù các thuật ngữ “những người duy tâm” và “những người duy vật” trong sự đối lập của họ đã từng được xác định bởi Lépnít và sau ông là Phíchtơ). Điều hiển nhiên là Lênin đã tầm thường hoá và xã hội học hoá sự đối lập của các bên đó như là sự đối lập về bản thể luận. Những năm trước đây, chính bản thân tôi, trong bài báo “Tính đảng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phương pháp luận lịch sử triết học” (“Những vấn đề triết học”, số 4, năm 1968), cũng đã lên tiếng chống lại sự “Makhơ hoá” tầm thường đó, bởi khi đó, tôi đang tham gia nghiên cứu tại Hội đồng khoa học của Khoa Triết học thuộc MGU và cả ở Xêmina về phương pháp luận tại Quận uỷ Quận Lênin của Đảng Cộng sản Liên Xô. Song, sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, về nguyên tắc, đã từng được Platôn “phát hiện ra”. Tại một trong những tập hội thoại căn bản của mình là “Sôphist” (“Nhà nguỵ biện”), tác giả đã đặt đối lập nhận thức của mình về các ý niệm bất biến, luôn có ở những “vị trí siêu cao nào đó trên trời” (Phêđông) với ý kiến của những người phản biện mình (được biết, ở đây, Platôn muốn nói đến trước hết là toàn bộ các công trình nghiên cứu của phái Nguỵ biện), tức những người “từ trên trời và từ lĩnh vực mịt mùng rơi xuống đất, giống như người dang hai tay ôm cây và tảng đá”, chỉ thừa nhận “cái mình tiếp xúc được, đụng chạm được mới là thật”, v.v.. Tuy nhiên, T.I.Ôiderơman vẫn đúng khi cho rằng, Hônbách và các nhà triết học duy vật khác trong chủ nghĩa vô thần chiến đấu đã chuyển trọng tâm cuộc đấu tranh của mình sang cuộc đấu tranh chống tôn giáo để không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm trừu tượng, mà còn chống lại cả quan niệm tôn giáo về sự bất tử của linh hồn con người, cũng như cuộc sống sau khi chết của con người. Chủ nghĩa duy tâm đã được họ giải thích theo hướng thiên về chủ nghĩa duy linh hơn là theo nghĩa nhân học và bản thể luận.
T.I.Ôiderơman cũng đã đúng khi cho rằng, cuốn sách của tôi được kết cấu dựa trên mô hình mẫu về tính chủ – khách thể, cho nên nó không thể dừng lại ở Cantơ, mà cần phải phân tích cả những nhà cổ điển sau đó trong chủ nghĩa duy tâm Đức. Đó là điều cần tiếp thu để lần tái bản sau. cuốn sách này có thể trở thành một “giáo trình” thực thụ.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Quả là thú vị khi Giáo sư N.S.Kirabaép đã đưa ra sự đánh giá khung xương phương pháp luận trong cuốn sách của tôi; điều này trùng hợp với ý định của tôi khi trình bày triết học Arập, đặc biệt là trong sự tương tác của nó với văn hoáArập – Hồi giáo. Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị thay chữ “thời đại” trong tiêu đề chương IX theo đề nghị của ông. Về nguyên tắc, N.S.Kirabaép đã đúng khi chỉ ra trong phần này còn thiếu việc phân tích tư tưởng của nhà lý luận xã hội nổi tiếng – Ibn Hanđun. Tuy thiếu sót đó là do “lỗi kỹ thuật”, do biên niên sử (ông ta sống vào khoảng thế kỷ XIV – XV) và lần xuất bản sau, nhà tư tưởng này sẽ có một vị trí xứng đáng trong cuốn sách của tôi.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi xin cảm ơn Giáo sư G.G.Maiorốp đã đọc cuốn sách nhiều trang của tôi một cách kỹ lưỡng. Tên của nó là kết quả nghiên cứu nhiều năm của tôi về lịch sử triết học. Giá trị cao nhất của nó là ở chỗ, trong các khoa học nhân văn, không có sự thống nhất hữu cơ nào hơn tính thống nhất của triết học với lịch sử của nó. G.G.Maiorốp đề nghị tôi bổ sung thêm từ “lý luận”. Trong cuốn sách này, đôi khi tôi đã đề cập đến, song ở đó, thuật ngữ “lý thuyết” thường được tôi sử dụng cho phù hợp với phương diện lịch sử hơn, và chính các nhà triết học Hi Lạp cổ đại cũng đã sử dụng từ này. Qua đó, cũng đã cho tôi thấy, cần phải suy nghĩ thêm về mối quan hệ của thuật ngữ chính gốc này với văn cảnh suy tư hiện nay, khi nó ít nhiều đã bị “hiện đại hoá”.
Về thuật ngữ “tri tín”, tôi đã nói ở trên khi phúc đáp nhận xét của Viện sĩ Ôiderơman. Có thể trong lần xuất bản sau, vấn đề triết học hàng đầu này cần phải được làm rõ thêm.
G.G.Maiorốp đề nghị tôi làm rõ hơn cụm từ “duy lý hoá một cách tối đa” và phải thay nó bằng cụm từ “trí tuệ hoá”. Bỏ cụm từ kết hợp đầu tiên trong sự đối lập của nó với “tri tín” và hạn chế nó là việc không thể thực hiện được, bởi nó không chỉ quy định tính khoa học và là một thành tố của nền văn minh, mà còn quy định việc tách cái hữu cơ ra khỏi cái cơ học và đưa sự đồng nhất của thế giới vĩ mô sang sự song hành của chúng. Tuy nhiên, thuật ngữ “trí tuệ hoá” mà G.G.Maiorốp đưa ra là thuật ngữ vốn ít được sử dụng nên giờ đây, cần phải sử dụng nó một cách rộng rãi hơn. Ông cũng đã chỉ rõ đặc trưng của thuật ngữ đó là sự gia tăng cái bản nguyên cá nhân có nhân cách của thế giới vi mô, xét trong sự đối lập của nó với thế giới vĩ mô.
Việc sử dụng thuật ngữ “ý niệm” một cách rộng rãi do Giáo sư G.G.Maiorốp đưa ra, khi ông đề nghị sử dụng nó thay cho thuật ngữ “khái niệm”, theo tôi, còn khó thực hiện hơn. Đương nhiên, trong tiếng Nga và tiếng Đức, thuật ngữ “ý niệm” rõ ràng là rộng hơn thuật ngữ “khái niệm”. Và, như chúng ta đã thấy, Cantơ đã đưa ra ba ý niệm về lý tính khi quy giản nó theo bản chất của siêu hình học (trước hết, đó là ý niệm mà Vônphơ đã đưa ra). Các ý niệm – eidos của Platôn với toàn bộ diện rộng về loài của chúng vẫn giữ được “các dấu ấn thân tộc” của giác quan (một số nhà ngôn ngữ học cổ điển dịch chúng là “dạng”). Không phải ngẫu nhiên mà Platôn đã buộc phải xem xét lại một cách căn bản học thuyết của mình về các ý niệm trong “Nhà nguỵ biện” và “Pácmênít”. Cần phải nói rõ thêm về việc tôi đã sử dụng thuật ngữ “siêu tuyệt đối” mà Giáo sư G.G.Maiorốp đã yêu cầu tôi giải thích. Nếu thuật ngữ “tuyệt đối” không chắc đã được sử dụng từ thời Talét (đương nhiên, vào lúc bấy giờ, chưa có thuật ngữ đó trong tiếng Latinh) để biểu thị tính vô thuỷ, vô chung của nhận thức về thần theo thời gian, cho nên trong triết học tiền Thiên Chúa giáo đã có thuật ngữ “xác tín” để nói về Chúa thống nhất và duy nhất nằm ngoài không gian và thời gian. Từ đó, mới có sự khẳng định dứt khoát về sự sáng tạo ra mọi hiện hữu “từ hư vô” – đó là nền tảng của mọi thần học, tức thần học không đòi hỏi gì về tính khó hiểu một cách có giới hạn của mọi định nghĩa.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Giáo sư V.V.Vaxiliép đã đưa ra một tổng quan về các dạng quan điểm khác nhau trong sự phân tích lịch sử triết học và trần thuật. Những suy tư thận trọng của Giáo sư về các quan điểm đó sẽ giúp tôi hoàn thiện cuốn sách này. Đương nhiên, V.V.Vaxiliép đã đúng khi cho rằng, trong cuốn sách của tôi còn thiếu sự lập luận, khi chỉ ra những nét đặc trưng trong các quan điểm của nhà triết học này hay nhà triết học khác. Nếu tôi có nhấn mạnh tính tối đa của sự duy lý hoá triết học trong suy tư toàn cầu của triết học, thì sự lập luận đó cần phải chiếm một vị trí xứng đáng trong cuốn sách này. Và, nếu bây giờ còn thiếu sự lập luận này, thì độ dày của cuốn sách này, dù được coi là đã nhiều trang, vẫn chưa làm tròn vai trò đó, và có lẽ, nó còn phải dày hơn nữa. Vả lại, tôi và Giáo sư Vaxiliép, như các vị đã biết, có sự khác biệt nhau về tâm thế triết học. Giáo sư muốn thận trọng một cách tuyệt đối khi luận giải về các ý niệm và quan điểm quan trọng (nói theo kiểu Đức), tôi thì lại coi trọng ý nghĩa căn bản của tư duy triết học trong diện rộng của trực giác – tổng hợp mà ở đó, sự phân tích chỉ đóng vai trò phụ.
Trong bài phát biểu có nội dung ngắn gọn của mình, Giáo sư A.L.Đôbrôkhôtốp đã nhấn mạnh rằng, “sự quy định lẫn nhau của chủ thể và khách thể là hệ thần kinh của triết học thế giới”. Tôi rất cảm ơn ông về công thức đó.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư A.V.Xemuskin về bài phát biểu tuy ngắn gọn nhưng rất thận trọng của ông. Giáo sư đã nhấn mạnh khả năng đổi mới về mặt lý luận các công trình nghiên cứu lịch sử triết học và triết học, đặc biệt là những tài liệu dùng cho việc giảng dạy.
Viện sĩ A.A.Guxâynốp đã nói đến cuốn sách của tôi những đánh giá mà theo ông, rất sâu sắc, độc đáo và phong phú đã được tôi đưa ra trong cuốn sách này. Đó là sự đánh giá kết hợp với giới thiệu tiểu sử. Đồng thời, sự kết hợp việc đánh giá như vậy với luận thuyết của Hêghen về triết học thời đại – lịch sử triết học, đương nhiên là sự phóng đại, mặc dù tôi đã cố gắng làm rõ đến mức tối đa con đường lý luận được xem là có ý nghĩa trong cuộc “du ký” lịch sử triết học của mình. Con đường đó cho phép làm rõ sự thống nhất mang tính thuyết phục nhất trong sự hỗn tạp, đa dạng của triết học. Với những hiểu biết được thể hiện qua sự phê bình, A.A.Guxâynốp đã đề cập đến một số mốc đặc biệt quan trọng của con đường đó. Cụ thể, đó là thuật ngữ “tri tín” – thuật ngữ có ý nghĩa hết sức quan trọng (thuật ngữ này phải được viết thành cụm từ liền nhau, không có dấu gạch nối). Trên đây, khi trả lời Viện sĩ T.I.Ôiderơman, tôi đã cố gắng vạch ra ý nghĩa đồng gốc về từ ngữ của nó trong lịch sử triết học, đặc biệt là trong mối quan hệ của nó với tính đa nghĩa đầy rắc rối mà Cantơ đã sử dụng như động từ “aufheben”. Ở đây, A.A.Guxâynốp đã nhấn mạnh những phương diện mới mà thuật ngữ này có liên quan mà về thực chất, đó là sự liên quan đến thành tố đạo đức học của triết học ở thời cổ đại. Trong văn cảnh đó, cũng nên xem xét vấn đề về Chúa như là sự thống nhất chủ – khách thể, một mặt, như là khách thể của niềm tin có giới hạn, và mặt khác, như là lý tưởng được trí tuệ hoá tới mức tối đa về nhận thức thế giới. Cũng cần phải làm rõ các phương diện thần học hoá và trí tuệ hoá của khái niệm Chúa với chức năng tối đa của nó về tồn tại được nhận biết và bất khả tri.
Viện sĩ A.A.Guxâynốp đã định hình một cách chính xác ý nghĩa của tính chủ – khách thể như là việc thừa nhận sự thống nhất của con người về hiệu quả – thế giới quan. Ông cũng đúng khi nhắc nhở tôi không nêu sự biến đổi ý nghĩa của các thuật ngữ kinh viện trong tiếng latinh. Tôi cho rằng, Cantơ đã suy xét kỹ lưỡng các thuật ngữ đó và hiện nay chúng vẫn còn phù hợp. Khi nói về tên gọi của cuốn sách – “Nhập môn Lịch sử triết học”, A.A.Guxâynốp đã nhấn mạnh tính đa nghĩa của nó. Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến này và sẽ đặc biệt lưu ý đến nguyện vọng của ông là “cuốn sách cần được thảo luận nhiều lần”. (Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tôi xin chân thành cám ơn giáo sư V.A.Giutrơcốp về việc ông nhấn mạnh rằng, tác giả cuốn sách đang được thảo luận đã “nắm được một khối lượng tư liệu thực sự đồ sộ, nhưng không “tự mình bơi” trong đó và cũng không để người đọc bị “chết ngập” vì tư liệu đó”. Tôi cho rằng, nhận xét đó của V.A.Giutrơcốp là công bằng và phù hợp với tâm thế triết học của tôi; rằng mô hình xuất phát của toàn bộ cuốn sách này là quan hệ chủ – khách thể không hề làm giảm “đặc tính hoặc ý nghĩa của giả thuyết mang tính gợi mở” mà nó đã đưa ra và cũng không làm cho những giả thuyết đó bị biến thành “chân lý được phát hiện hoàn toàn đầy đủ hoặc thành chân lý tối cao”. Song, tôi không thể tán thành với V.A.Giutrơcốp rằng, đôi khi cách tiếp cận chủ – khách thể của tôi “không chỉ là cách tiếp cận vấn đề, mà còn mang tính chuyên đề và thậm chí là mô tả, mặc dù cách tiếp cận đó được tiến hành trong khung cảnh tóm lược có nội dung – cụ thể”. Bởi, nếu vậy thì sự trừu tượng của văn bản cần phải được cụ thể hoá khi diễn giải.
Để kết thúc tất cả những câu trả lời về ưu, khuyết điểm nêu trên, tôi muốn bày tỏ sự biết ơn chân thành của mình tới tất cả các thành viên tham gia cuộc thảo luận này, bởi những nhận xét này giúp tôi hoàn thiện cuốn sách để có thể tái bản nó.r
Người dịch: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
Người hiệu đính: PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC
NGUYỄN NGỌC HÀ (*)
Để nâng cao chất lượng giảng dạy triết học Mác – Lênin, bài viết đề cập đến ba vấn đề: mục đích, nội dung và phương thức giảng dạy triết học. Tác giả cho rằng, mục đích của giảng dạy triết học là cung cấp tri thức triết học cho người học và quan trọng hơn, giúp người học tự xây dựng quan điểm triết học đúng đắn của mình. Do đó, người dạy cũng cần phải có quan điểm triết học của mình, tìm được phương pháp kiểm tra thích hợp, có sự kết hợp giữa tri và hành. Về nội dung: cần xác định hệ thống các vấn đề triết học. Theo tác giả, các vấn đề triết học chủ yếu có thể được chia thành hai nhóm: các vấn đề triết học chung (chung cho cả tự nhiên, xã hội và tư duy) và các vấn đề triết học về xã hội. Về phương thức: trình bày một cách khách quan những quan điểm cơ bản đã có trong lịch sử về từng vấn đề triết học theo trình tự từ sâu sắc ít cho đến sâu sắc nhiều. Cũng theo tác giả, cần thiết có một cuốn sách tóm tắt lịch sử những cuộc tranh luận triết học để giúp những người nghiên cứu triết học có thể tự xây dựng cho mình một hệ thống quan điểm triết học đúng đắn ở một mức độ sâu sắc cần thiết.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Triết học là tinh hoa của văn hoá, là những quan điểm chung nhất về thế giới và cuộc sống của con người, là phương pháp luận của các khoa học. Do có vị trí quan trọng đó nên triết học (hoặc triết học Mác – Lênin) đã được coi là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo đại học và sau đại học của nước ta[i]. Nhưng thật đáng tiếc, hiện việc giảng dạy môn học này chưa có hiệu quả cao, gây nhiều lãng phí cho xã hội. Thực tế này đang đặt ra cho những người giảng dạy, nghiên cứu, học tập triết học và cho cả những người quản lý một nhiệm vụ quan trọng là đổi mới việc giảng dạy triết học Mác – Lênin. Đổi mới là cần thiết, nhưng vấn đề phức tạp là “đổi mới như thế nào?”. Để góp phần tìm lời giải đáp cho vấn đề phức tạp này, dưới đây chúng tôi muốn nêu vài suy nghĩ về mục đích, nội dung và phương thức của việc giảng dạy triết học.
Mục đích của việc giảng dạy triết học
Mục đích của việc giảng dạy triết học, trước hết, là cung cấp tri thức triết học cho người học, giúp cho người học biết được càng nhiều càng tốt các quan điểm của các nhà triết học trên thế giới từ trước đến nay và quan trọng hơn, là giúp người học tự xây dựng quan điểm triết học đúng đắn cho mình. Nếu như đối với các môn khoa học cụ thể, quan điểm của các nhà khoa học nhìn chung là thống nhất, thì đối với triết học, quan điểm của các nhà triết học nhìn chung lại không thống nhất vì có nhiều trường phái triết học khác nhau và ngay trong một trường phái, nhiều vấn đề cũng đang có sự bất đồng ý kiến. Đây là một điểm khác biệt đáng chú ý giữa triết học với các khoa học cụ thể. Phù hợp với đặc điểm này, người học triết học không chỉ cần biết được các quan điểm triết học của người khác, mà còn cần và chủ yếu cần xây dựng được quan điểm triết học đúng đắn cho mình.
Nếu như việc xây dựng quan điểm triết học đúng đắn cho người học là điều quan trọng thì trong cách đánh giá về kết quả của việc học triết học, yêu cầu đối với người học không phải chỉ là ở chỗ xem người học có biết được nhiều quan điểm của các nhà triết học hay không, mà còn là ở chỗ xem họ có quan điểm triết học hay không, quan điểm ấy có đúng đắn và sâu sắc hay không. Người học có thể biết được quan điểm của những người khác nhưng vẫn không có một quan điểm triết học nào. Do vậy, nếu kiểm tra trình độ nhận thức người học bằng cách yêu cầu người học trình bày các quan điểm của các nhà triết học nào đó thì những người không có quan điểm triết học vẫn có thể thực hiện xuất sắc yêu cầu kiểm tra. Còn nếu kiểm tra trình độ nhận thức người học bằng cách yêu cầu người học trình bày quan điểm của mình, bình luận và đánh giá quan điểm của những người nào đó thì chỉ những người tự xây dựng được quan điểm triết học cho mình mới thực hiện được yêu cầu kiểm tra. Người dạy có thể bắt được người học nói theo điều mình muốn, nhưng không thể bắt được người học tin theo quan điểm mình muốn; vì vậy, cần chú trọng kiểm tra điều người học nghĩ, chứ không phải chỉ chú trọng kiểm tra điều người học nói. Trong trường hợp quan điểm của người học không phù hợp với quan điểm của người dạy thì người dạy cần xem lại tính thuyết phục trong bài giảng của mình (quan điểm của mình có hợp lý không, nếu hợp lý thì sự truyền đạt có rõ ràng và dễ hiểu không). Quan điểm triết học có thể là duy tâm hoặc duy vật, bất khả tri hoặc khả tri, siêu hình hoặc biện chứng; trong đó, chỉ có quan điểm duy vật, khả tri và biện chứng là đúng đắn. Nhưng, việc xác định một quan điểm cụ thể nào đó có phải là duy vật, khả tri và biện chứng hay không lại có thể rất không đơn giản. Ngay một số nhà triết học nổi tiếng thuộc trường phái duy vật, khả tri, biện chứng cũng có quan điểm bị coi là không duy vật, không khả tri hoặc không biện chứng. Vì vậy, sự không phù hợp quan điểm có thể có giữa người học với người dạy (nhất là với những người dạy chưa có nhiều kinh nghiệm) cũng là bình thường.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Về lôgíc của sự nhận thức thì quá trình học tập triết học của người học diễn ra theo trình tự từ thấp đến cao, từ chưa có quan điểm triết học đến có quan điểm triết học, từ có quan điểm triết học chưa đúng và chưa sâu sắc đến chỗ có quan điểm triết học đúng hơn và sâu sắc hơn. Nhưng trên thực tế, quá trình học triết học diễn ra phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn, người học có thể lúc đầu theo quan điểm của Platôn, sau đó lại theo quan điểm của Đêmôcrít, sau nữa lại theo quan điểm của Platôn; hoặc là có thể lúc đầu theo quan điểm duy vật, sau đó lại theo quan điểm duy tâm, sau nữa lại theo quan điểm duy vật. Học tập triết học là quá trình tự nhận thức. Trong quá trình này, người dạy có vai trò là thúc đẩy cho quá trình tự nhận thức của người học diễn ra nhanh hơn. Để làm được việc đó, người dạy cũng phải có quan điểm triết học của mình, bởi nếu người dạy không có quan điểm triết học của mình thì không thể thuyết phục được người học tin theo một quan điểm triết học nào đó.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong triết học, có các quan điểm về nhân sinh (tức là nhân sinh quan). Việc dạy các quan điểm triết học về nhân sinh phức tạp hơn so với việc dạy các quan điểm triết học khác. Đó là vì người dạy không những cần có quan điểm nhân sinh của mình, mà còn phải thể hiện quan điểm ấy bằng hành động thực tế. Chẳng hạn,sống có hiếu với cha mẹ là một quan điểm về nhân sinh; để thuyết phục người học tin theo quan điểm này thì người dạy không những phải tin theo quan điểm ấy, mà còn phải thể hiện quan điểm ấy bằng hành động cụ thể của mình, phải sống có hiếu với cha mẹ của mình. Nếu anh sống không có hiếu với cha mẹ của mình thì tức là anh không hiểu biết về đạo hiếu và không tin theo quan điểm sống có hiếu với cha mẹ; nếu anh không hiểu biết về đạo hiếu và không tin theo quan điểm sống có hiếu với cha mẹ thì anh không thể dạy người học về đạo hiếu và thuyết phục người học tin theo quan điểm ấy. Anh không thể dạy người khác cái điều mà anh không hiểu biết. Anh cũng không thể khuyên người khác làm cái điều mà anh không muốn làm. Đối với việc giảng dạy các khoa học cụ thể, người học có thể không quan tâm đến lối sống của người dạy. Nhưng, đối với việc giảng dạy triết học thì người học thường quan tâm đến lối sống của người dạy. Do vậy, kết quả của việc giảng dạy triết học liên quan mật thiết không chỉ đến kiến thức của người dạy mà còn đến hành động cụ thể của người dạy.
Nội dung của việc giảng dạy triết học
Xác định nội dung của việc giảng dạy triết học, cụ thể là xác định hệ thống các vấn đề của triết học, là công việc quan trọng và phức tạp. Mỗi một môn khoa học có một hệ thống những vấn đề riêng, việc trả lời những vấn đề của một khoa học tạo thành nội dung của môn khoa học ấy. Triết học là một môn học và cũng có một hệ thống các vấn đề riêng. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy triết học, chúng ta phải xác định rõ ràng và đúng đắn những vấn đề triết học, đồng thời sắp xếp những vấn đề ấy thành hệ thống. Có vấn đề đối với nhà triết học này là vấn đề triết học, nhưng đối với nhà triết học khác lại không phải là vấn đề triết học; hoặc đối với nhà triết học này là vấn đề triết học quan trọng và cần thiết, nhưng đối với nhà triết học khác lại là vấn đề triết học không quan trọng và không cần thiết. Trong số các vấn đề triết học, có một vấn đề cơ bản, đó là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vấn đề cơ bản này chỉ được Ph.Ăngghen xác định vào những năm cuối đời của ông. Điều đó cho thấy tính phức tạp trong việc xác định vấn đề cơ bản của triết học. Để có thể xác định một vấn đề nào đó có phải là vấn đề triết học hay không, thì người trình bày cần phải có định nghĩa rõ ràng và cụ thể về khái niệm “triết học”. Nhưng, khái niệm “triết học” đã và đang được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và do đó, đã dẫn đến sự bất đồng trong việc xác định các vấn đề nào đó có phải là các vấn đề triết học hay không.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Khi khẳng định một vấn đề nào đó là vấn đề triết học thì người trình bày cần phải chỉ rõ tình huống có vấn đề, tức là phải chỉ rõ vì sao vấn đề ấy lại được đặt ra. Hệ thống các vấn đề triết học hiện nay chưa được xác định rõ ràng. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ triết học có bao nhiêu vấn đề, có một hay có nhiều vấn đề cơ bản, những vấn đề nào là chủ yếu và những vấn đề nào là thứ yếu, những vấn đề nào cần giải quyết trước và những vấn đề nào cần phải quyết sau, mối liên hệ lẫn nhau giữa các vấn đề đó như thế nào.
Các vấn đề triết học tương ứng với các khái niệm triết học. Ví dụ, cặp khái niệm cái chung và cái riêng tương ứng với vấn đề cái chung và cái riêng. Với cách hiểu này thì các vấn đề triết học chủ yếu, theo chúng tôi, có thể được chia thành 2 nhóm là các vấn đề triết học chung (chung cho cả tự nhiên, xã hội và tư duy) và các vấn đề triết học về xã hội. Trong nhóm vấn đề triết học chung có các vấn đề là: -Vật chất và ý thức (bao gồm cả nhận thức, thực tiễn, chân lý, sai lầm, tiêu chuẩn của chân lý, tính chủ quan, tính khách quan, chủ thể, khách thể); – Không gian và thời gian; – Vận động và phát triển (bao gồm cả đứng im, thoái hoá, nguồn gốc sự vận động, phương thức sự vận động, khuynh hướng sự vận động, động lực sự phát triển); – Sự vật, thuộc tính, quan hệ; – Hệ thống và yếu tố; – Chỉnh thể và bộ phận;- Đối tượng và dấu hiệu; – Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất; – Bản chất và hiện tượng;- Nguyên nhân và kết quả;- Tất nhiên và ngẫu nhiên;- Nội dung và hình thức; – Khả năng và hiện thực; v.v.. Trong nhóm các vấn đề triết học về xã hội có các vấn đề: – Bản chất và nguồn gốc của con người;- Quan hệ cá nhân và cộng đồng; – Các giai đoạn lịch sử; – Kinh tế và chính trị; – Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; – Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; – Tồn tại xã hội và ý thức xã hội; – Sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần; – Nhà nước và pháp luật; – Giai cấp, dân tộc, nhân loại; – Tiến bộ xã hội và thoái bộ xã hội;- Cách mạng xã hội; – Chiến tranh và hoà bình; – Đạo đức, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, văn hoá và văn minh; – Dân số, gia đình và giới; – Môi trường sinh thái; v.v.. Danh mục các vấn đề triết học không phải là cố định vì chúng ngày càng được bổ sung thêm theo sự phát triển của các khoa học cụ thể và của thực tiễn.
Phương thức giảng dạy triết học
Sau khi đã xác định những vấn đề triết học, đồng thời sắp xếp những vấn đề ấy thành hệ thống, thì bước tiếp theo trong quá trình giảng dạy triết học là trình bày một cách khách quan những quan điểm cơ bản đã có trong lịch sử về từng vấn đề triết học theo trình tự từ sâu sắc ít cho đến sâu sắc nhiều. Đối với việc giảng dạy các môn khoa học cụ thể, người dạy có thể không cần trình bày tất cả các quan điểm về các vấn đề của môn khoa học; nhưng đối với việc giảng dạy triết học, việc trình bày tất cả các quan điểm về các vấn đề của triết học là rất quan trọng và cần thiết. Bởi điều đó giúp cho người học có thêm căn cứ để lựa chọn cho mình một quan điểm nào đó hoặc tìm kiếm một quan điểm mới trên cơ sở phê phán các quan điểm đã có.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Quan điểm của các nhà triết học thuộc thế hệ sau không phải bao giờ cũng sâu sắc hơn hoặc đúng hơn quan điểm của các nhà triết học thuộc thế hệ trước. Ví dụ, về vấn đề vật chất có trước hay có sau ý thức, quan điểm của Hêghen sâu sắc hơn quan điểm của Đêmôcrít, nhưng quan điểm của Đêmôcrít là duy vật (đúng) còn quan điểm của Hêghen là duy tâm (sai); quan điểm của Hêghen về mâu thuẫn sâu sắc hơn quan điểm về mâu thuẫn của E.Makhơ… Khi trình bày lịch sử cuộc tranh luận của các nhà triết học tiêu biểu về từng vấn đề triết học, người trình bày cần coi lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai hệ quan điểm đối lập nhau là quan điểm duy vật, khả tri, biện chứng và quan điểm không duy vật, bất khả tri, siêu hình. Cả hai hệ quan điểm này đều có sự phát triển từ sâu sắc ít đến sâu sắc nhiều hơn. Mỗi khi hệ quan điểm duy vật, khả tri, biện chứng có bước phát triển mới thì những người phản đối quan điểm ấy cũng sẽ tìm cách phát triển quan điểm của họ. Vì thế, đối với mỗi vấn đề, người dạy triết học phải trình bày sự phát triển của cả hai hệ quan điểm triết học này. Quan điểm triết học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là duy vật, khả tri, biện chứng. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề triết học đều được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đề cập đến; cũng không phải rằng C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều có quan điểm mới ở tất cả các vấn đề mà các ông đề cập. Hệ thống quan điểm duy vật, khả tri, biện chứng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã và đang được hoàn thiện hơn bởi nhiều nhà triết học khác thuộc trường phái duy vật, khả tri, biện chứng. Vì vậy, khi giảng dạy triết học, người dạy không chỉ trình bày những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, mà cần phải trình bày quan điểm của các nhà triết học khác thuộc trường phái duy vật, khả tri, biện chứng để người học thấy được sự phát triển của hệ quan điểm triết học thuộc trường phái này cho đến tận ngày nay.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Khi trình bày lịch sử cuộc tranh luận của các nhà triết học tiêu biểu về từng vấn đề triết học, người dạy cũng cần thể hiện quan điểm của mình, bởi người dạy cũng là một người tham gia vào cuộc tranh luận này; người dạy cần có bình luận, đánh giá các quan điểm được trình bày, phải đứng trên một lập trường nào đó. Nếu người dạy không có quan điểm của mình thì, như đã nói ở trên, người dạy khó mà khuyên người học theo một quan điểm nào đó.
Phương thức giảng dạy triết học trên đây sẽ kích thích người học tham gia vào cuộc tranh luận của các nhà triết học tiêu biểu trong lịch sử về các vấn đề triết học. Trên cơ sở biết được các quan điểm triết học cơ bản đã có trong lịch sử, người học sẽ lựa chọn cho mình một quan điểm đúng đắn, đồng thời sẽ xây dựng các luận cứ và luận chứng cần thiết. Giảng dạy triết học theo phương thức như vậy chính là giảng dạy lịch sử triết học.
Lịch sử những cuộc tranh luận triết học diễn ra hàng ngàn năm với biết bao tài liệu. Tuy nhiên, chúng ta có thể tóm tắt lịch sử những cuộc tranh luận triết học ấy trong một cuốn sách để những người nghiên cứu triết học (học sinh, sinh viên, nhà khoa học, người hoạt động thực tiễn, v.v) dù không nghiên cứu toàn bộ các tài liệu triết học đã có trong lịch sử vẫn có thể tự xây dựng được cho mình một hệ thống quan điểm triết học đúng đắn ở một mức độ sâu sắc cần thiết. Làm được như vậy, người dạy có thể khơi dậy được niềm say mê triết học nơi người học ở nhiều lứa tuổi và nhiều tầng lớp khác nhau và qua đó, sẽ nâng cao được hiệu quả của việc giảng dạy triết học.r
- Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
[i] Tên gọi môn học này chưa thống nhất, có khi được gọi là Triết học, có khi lại là Triết học Mác – Lênin. Ví dụ, trong cuốn Triết học. Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, gồm 3 tập) thì môn học này có tên gọi là Triết học.
THẾ NÀO LÀ MỘT BÀI VIẾT CÓ TÍNH TRIẾT HỌC?
NGUYỄN HỮU ĐỄ (*)
Thông qua bài viết này, tác giả đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh vấn đề đánh giá tính triết học của một bài viết. Sau khi phân tích một số điểm cần có sự thống nhất, tác giả đã luận giải để làm rõ rằng, một bài viết được coi là có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung sau: 1) Đề cập đến những vấn đề triết học chung; 2) Nêu lên những vấn đề triết học cuộc sống; 3) Đề cập đến những vấn đề của các khoa học khác từ góc độ triết học. Theo tác giả, đây là vấn đề không đơn giản, không dễ dàng. Vì vậy, để có sự lý giải thực sự thuyết phục, có tính khoa học và sớm xác định hệ tiêu chí đánh giá cụ thể, chính xác về tính triết học của một bài viết, cần có sự nghiên cứu, trao đổi của các chuyên gia trong lĩnh vực này.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Vấn đề “Thế nào là một bài viết có tính triết học?” tưởng như đơn giản, nhưng để có tiêu chí đánh giá một cách cơ bản, thống nhất, được nhiều người nhất trí lại cần phải được phân tích, trao đổi, thảo luận một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Vì vậy, có thể nói, đây là vấn đề đã xuất hiện từ lâu nhưng việc trả lời một cách thoả đáng lại không hề dễ dàng, nhất là trong tình hình người nghiên cứu triết học được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin như hiện nay.
Để lý giải vấn đề này, trước hết chúng ta cần thống nhất một số luận điểm cơ bản nhằm phân biệt triết học với các lĩnh vực tri thức khác ngoài triết học. Tôi nói “ngoài triết học” chứ không phải là “các khoa học khác”. Bởi nói “ngoài triết học” sẽ bao trùm được nhiều lĩnh vực hơn, chẳng hạn như quan điểm sống, quan điểm chính trị, tư duy thường ngày, v.v.. Lâu nay, chúng ta vẫn thường nhất trí một cách khái quát rằng, triết học khác các khoa học khác ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới vật chất và tư duy của con người. Phương pháp nghiên cứu của nó là khái quát hoá, trừu tượng hoá cao nhất, là đi từ trừu tượng đến cụ thể, là kết hợp lôgíc – lịch sử ở tầm bao quát nhất, v.v.. Nói tóm lại, cái mà triết học nghiên cứu là rộng nhất, bao trùm nhất, gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì thế, phương pháp nghiên cứu của nó cũng phải “lớn” nhất, có thể dùng để nhận thức được về đối tượng nghiên cứu. Nhờ vậy, chúng ta mới có các luận điểm, quan điểm, v.v. ở tầm triết học, ở tầm khoa học liên ngành, ở tầm các khoa học cụ thể và cả ở tầm đời sống thường ngày. Điều đó lý giải rằng, tại sao cùng một quan niệm, khái niệm, phạm trù lại được nhiều ngành sử dụng như vậy. Và khi sử dụng ở các tầm khác nhau như thế thì nội dung của nó đã ít nhiều thay đổi: rộng hơn hoặc hẹp hơn, sâu sắc hoặc kém sâu sắc hơn.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Luận điểm thứ hai chúng ta cần nhất trí là, khi nói một bài viết nào đó có tính triết học, trước hết bài viết ấy phải dựa trên cơ sở triết học Mác – Lênin. Như chúng ta biết, cho đến nay, triết học Mác – Lênin vẫn là đỉnh cao của tư duy triết học loài người và bản thân triết học Mác – Lênin đã bao chứa trong nó toàn bộ tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại trước đó. Vì thế, khi xây dựng đường lối xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có triết học, và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận.
Tất nhiên, ai đó có thể phủ nhận điều này mà bài viết của người đó vẫn có thể có tính triết học (vì rất nhiều nhà tư tưởng trước C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cũng như các tác gia triết học hiện đại sau này đều là những nhà triết học và không thể nói các tác phẩm của họ không có tính triết học), nhưng đó là triết học xa rời thực tế và ít nhiều không phản ánh đúng hiện thực khách quan. Giả sử sau này có một hệ thống triết học khác cao hơn triết học Mác – Lênin thì trong trường hợp như vậy, một bài viết từ lập trường triết học Mác – Lênin cũng vẫn được coi là có tính triết học. Tất nhiên, ở đây, chúng ta đề cập đến vấn đề từ một lập trường được coi là duy nhất đúng đắn, tuy nó vẫn cần tiếp tục có sự bổ sung và phát triển. Xa rời lập trường đó, bài viết đã coi như bị loại bỏ mà không cần xét thêm gì nữa.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Một luận điểm nữa mà chúng ta cũng cần có sự nhất trí, đó là xem xét triết học Mác – Lênin theo phân tầng cấu trúc của nó. Có thể xem xét nó như là triết học chung, triết học xã hội, triết học chính trị, triết học văn hoá, triết học đạo đức, v.v.. Điều này liên quan đến vấn đề vận dụng triết học Mác – Lênin để giải quyết các vấn đề cụ thể hay là mở rộng triết học Mác – Lênin sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hoặc là nghiên cứu các lĩnh vực khác đó theo cách tiếp cận triết học. Bởi vì, dù những vấn đề đó được lý giải theo phương diện nào thì một bài viết thể hiện được một trong những phương diện ấy cũng đã mang tính triết học rồi. Về ý này, tác giả biên soạn cuốn Những kiến giải về triết học khoa họcđã viết: “Triết học là tinh hoa của tinh thần thời đại nên nó không những phát triển theo một mặt bằng mà còn theo khối, theo tầng lớp: thứ nhất là lý luận cơ bản về bản thân triết học, thứ hai là sự kết hợp giữa triết học và cuộc sống hiện thực, thứ ba là sự giao thoa giữa triết học và các ngành khoa học khác”(1). Theo đó, bài viết sẽ có tính triết học nếu nó thể hiện được ít nhất một trong ba nội dung trên.
Trên cơ sở sự nhất trí trên, có thể nói rằng, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được một trong những ý sau:
1/ Bài viết đề cập đến những vấn đề triết học chung.
Nếu bài viết đề cập đến một trong những vấn đề của triết học, chẳng hạn một khái niệm, một phạm trù, một quy luật, một luận điểm triết học, v.v. thì đương nhiên, bài viết đó có tính triết học. Về ý này, chúng ta còn có thể tiếp tục phân chia nhỏ hơn như sau:
- Thứ nhất, đó là những vấn đề thuộc triết học Mác – Lênin. Bài viết phân tích, lý giải những vấn đề đó một cách cụ thể hơn, hệ thống hơn hoặc phát triển hơn.
- Thứ hai, bài viết đề cập đến những vấn đề thuộc triết học phi mácxít, nhưng tác giả đứng trên lập trường triết học Mác – Lênin để nhận định, đánh giá, phê phán hoặc tiếp thu để bổ sung cho triết học Mác – Lênin. Đó có thể là những bài viết phê phán một cách khoa học những tư tưởng của các nhà triết học phi mácxít, tức là có sự đánh giá đúng, sai dựa trên quan điểm triết học mácxít.
- Thứ ba, những vấn đề lịch sử triết học. Đó là sự tái hiện, dựng lại một cách hệ thống một tư tưởng triết học nào đó theo dòng lịch sử tư tưởng nhân loại. Đó có thể là một tư tưởng triết học của một tác giả hoặc nhiều tác giả, của một hệ thống triết học hoặc nhiều hệ thống triết học, của một trường phái triết học hay của nhiều trường phái triết học khác nhau.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
2/ Bài viết nêu lên những vấn đề triết học cuộc sống.
Nếu bài viết phân tích một vấn đề nào đó do cuộc sống đặt ra từ góc độ triết học thì bài viết đó thể hiện được tính triết học. Ở đây lại nảy sinh vấn đề: thế nào là từ góc độ triết học? Theo tôi, “từ góc độ triết học” có thể được hiểu theo các khía cạnh sau:
- Thứ nhất, vấn đề đề cập bao trùm toàn bộ đời sống xã hội của một vùng, một dân tộc, một quốc gia hay nhiều quốc gia mà khi phân tích nó, tác giả phải dựa vào hệ thống lý luận cơ bản của triết học mácxít nhằm rút ra được những quan điểm hoặc hệ thống quan điểm mang tính lý luận, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
- Thứ hai, toàn bộ nội dung bài viết toát lên một luận điểm, một nguyên lý nào đó của triết học Mác – Lênin. Nó khác với ví dụ minh họa cho luận điểm triết học ở tính hệ thống, tính lôgíc, tính nhất quán của vấn đề được trình bày.
- Thứ ba, những bài viết đề cập đến một tư tưởng, một quan điểm nào đó của Đảng ta hoặc của một lãnh tụ cách mạng nhằm chỉ ra cơ sở lý luận, cơ sở triết học của tư tưởng, quan điểm đó. Hoặc bài viết phân tích tính đúng đắn về mặt triết học của các tư tưởng, quan điểm đó (chúng thể hiện nội dung của các quan điểm triết học Mác – Lênin). Khía cạnh này lại được thể hiện ở các cấp độ sau:
- Thuyết minh cho đường lối của Đảng. Đó là những bài viết luận chứng cho các quan điểm của Đảng, chỉ ra cơ sở triết học – khoa học của chúng.
- Đưa ra cơ sở lý luận nhằm phát triển hơn nữa quan điểm của Đảng.
- Xây dựng cơ sở lý luận cho việc hình thành những quan điểm mới của Đảng.
Qua những nội dung trên, ta thấy triết học có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi phương diện đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, đề tài cho triết học nghiên cứu là rất rộng, rất đa dạng và phong phú. Đó chính là triết học cuộc sống.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
3/ Bài viết đề cập đến những vấn đề của các khoa học khác từ góc độ triết học.
Nếu bài viết thể hiện được sự giao thoa giữa triết học và các ngành khoa học khác thì bài viết đó mang tính triết học. Đó là những bài viết thuộc các ngành triết học khác nhau, như triết học đạo đức, triết học môi trường, triết học tôn giáo, v.v.. Ngoài ra, đó có thể là những bài viết bàn về vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận của các khoa học khác hoặc dựa trên cơ sở những thành tựu của các khoa học khác để làm sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn và phát triển hơn những luận điểm của triết học Mác – Lênin. Về phương diện này, một bài viết được coi là có tính triết học cần đạt những yêu cầu sau:
- Thứ nhất, thông qua việc luận giải, khái quát những thành tựu của các khoa học khác, bài viết minh chứng cho một luận điểm, quan điểm nào đó của triết học (chẳng hạn, chứng minh mối liên hệ phổ biến hoặc các quy luật của phép biện chứng, v.v.).
- Thứ hai, từ các quan điểm, luận điểm của triết học Mác – Lênin, tác giả làm rõ cơ sở lý luận và phương pháp luận cho những nghiên cứu của một ngành khoa học nào đó. Đây có thể tạm coi là sự cụ thể hoá vai trò của triết học trong mỗi ngành khoa học cụ thể.
- Thứ ba, trên cơ sở những thành tựu và phát minh mới của các ngành khoa học khác, bài viết làm sâu sắc hơn, phong phú hơn (hoặc đưa ra quan điểm triết học mới) những nội dung của hệ thống quan điểm triết học Mác – Lênin.
Như vậy, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung trên. Dựa trên những tiêu chí đó, chúng ta sẽ có những bài viết thuần tuý triết học, có những bài viết thể hiện quan điểm triết học và có những bài viết nghiên cứu các vấn đề đặt ra từ quan điểm triết học. Điều đó có thể được coi là tương ứng với các cấp độ cấu trúc của triết học: triết học, triết học ứng dụng và ứng dụng triết học. Nếu nhìn theo lát cắt khác, ta có triết học bao gồm cả mặt bản thể luận và nhận thức luận, triết học bản thể luận, triết học nhận thức luận. Tương ứng với chúng, ta có những ngành triết học trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới khách quan: triết học khoa học, triết học xã hội, triết học văn hoá, v.v..
Qua đó ta thấy, để đánh giá một bài viết có tính triết học hay không, trước hết phải quy bài viết đó thuộc về dạng nào, từ đó chỉ ra nội dung của nó đã đáp ứng được yêu cầu của dạng đó hay chưa. Nếu không làm như vậy, người ta rất có thể đưa ra nhận xét về một bài viết hoặc là thiếu, hoặc là không có tính triết học. Nhưng khi đặt vấn đề bài viết đó “thiếu” hoặc “không” có tính triết học như thế nào thì người đánh giá lại rất lúng túng, hoặc trả lời một cách chung chung và mơ hồ. Nếu không dựa trên một tiêu chí hoặc một hệ tiêu chí cụ thể nào đó, việc đánh giá một bài viết có tính triết học hay không rất dễ rơi vào một trong các trường hợp sau:
+ Đánh giá một cách chủ quan, cảm tính.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
- Không có sự thống nhất trong Hội đồng hoặc nhóm những người đánh giá. Người này dựa vào tiêu chí này đánh giá là “không”, nhưng người khác lại nói là “có”. Về vấn đề này, ta có thể nêu thí dụ sau để minh họa. Chẳng hạn, một bài viết về quan hệ giữa giáo dục – đào tạo và vấn đề phát huy nguồn lực con người. Nội dung bài viết trình bày vai trò của giáo dục – đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người có chất lượng cao, phân tích khá sâu những vấn đề thuộc giáo dục – đào tạo, chẳng hạn như vốn đầu tư, công nghệ giáo dục và một loạt các thành tựu giáo dục – đào tạo của các nước như Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc, v.v. được đưa ra làm dẫn chứng. Khi đánh giá bài viết này, có ý kiến cho rằng, bài viết ít tính triết học mà thiên về ngành giáo dục – đào tạo. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng, triết học chính là mối liên hệ biện chứng và bài viết đã phân tích được mối quan hệ giữa giáo dục – đào tạo và phát huy nguồn lực con người, nên có tính triết học. Tất nhiên, đây chỉ là thí dụ, song nó khá điển hình trong việc đánh giá các bài viết, luận văn, luận án những năm gần đây. Một bài viết triết học, một luận văn, luận án triết học mà dung lượng khá lớn dành cho những vấn đề cụ thể; trong khi chức năng thế giới quan, phương pháp luận của triết học không hề được xét đến thì có thể coi là bài viết thuộc lĩnh vực triết học được chăng? Còn mối liên hệ, có khoa học nào hoặc sự kiến giải khoa học nào lại không đề cập đến? Khoa học nói chung có thể nghiên cứu cái gì ngoài những mối liên hệ? Trên thực tế, chính vì không có tiêu chí rõ ràng về vấn đề này nên nhiều học trò hay người viết đã phải hứng chịu sự đánh giá chủ quan của người thẩm định. Hệ quả là người ta phải cố tạo nên “quan hệ tốt” với người đánh giá. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân sinh ra tiêu cực trong quan hệ giữa người được đánh giá và người bị đánh giá.
Hiện nay, còn có tình trạng người viết thuộc lĩnh vực triết học chỉ chú trọng đến những vấn đề cụ thể do xã hội đặt ra, mà quên đi cơ sở lý luận triết học Mác – Lênin. Vì thế, để bài viết “có tính triết học”, tác giả cố gắng có nhiều trích dẫn C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Theo họ, như thế sẽ đảm bảo tính triết học của bài viết. Thực ra, trong một nghiên cứu nghiêm túc, việc trích dẫn các tác giả kinh điển chỉ được dùng đến khi thật cần thiết. Như chúng ta đã biết, nếu tác giả là người đang học tập triết học thì việc trích dẫn là cần thiết, nhưng đối với người làm công tác nghiên cứu triết học thì lại không nên quá chú trọng vào điều đó. Vấn đề là ở chỗ, người nghiên cứu phải nắm được cái “thần” trong quan điểm, luận điểm của các tác gia kinh điển để từ đó, phát triển lên, chứ không phải dẫn nguyên văn, nguyên ý của những người đi trước. Hơn nữa, việc trích dẫn hiện nay thường theo hướng: sau khi trình bày nội dung cơ bản của câu văn định trích dẫn, tác giả lại trích dẫn chính câu văn đó với hàm ý rằng, chính các nhà kinh điển đã khẳng định như vậy. Việc tiếp theo cần triển khai như thế nào thì rất ít người làm được. Vì vậy, có người có nhiều bài viết, nhiều công trình song ít được người trong ngành chú ý đến với tư cách nhà khoa học. Thực trạng này không chỉ diễn ra trong ngành triết học, mà còn biểu hiện trong một số ngành khoa học xã hội khác nữa. Chúng ta đã biết rằng, hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin đồ sộ như vậy, nhưng khi đánh giá sự đóng góp thực sự của các ông, người ta thường chỉ nói đến hai nội dung chính: chủ nghĩa duy vật lịch sử – chủ yếu là quan điểm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Vì vậy, đối với người nghiên cứu, khi viết bài nên chú trọng đến ý tưởng mới hoặc cách đặt vấn đề mới hơn là việc “tầm chương trích cú”. Tính triết học của một bài viết không phụ thuộc vào việc trích dẫn tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Nhưng, làm thế nào để bài viết có tính triết học? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần lưu ý đến một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu. Phải thấy được vấn đề triết học trong đối tượng được lựa chọn. Nói cách khác, sự vật, hiện tượng được chọn là có vấn đề về mặt thế giới quan hoặc phương pháp luận. Theo ngôn ngữ khoa học, đó là “tình huống có vấn đề”.
Thứ hai, phương pháp trình bày. Bài viết được trình bày theo lôgíc của sự vật, hiện tượng để dẫn tới kết luận có tính chất thế giới quan hay phương pháp luận; hoặc từ thế giới quan, phương pháp luận triết học, bài viết phân tích vấn đề nhằm chỉ ra bản chất, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó.
Thứ ba, phần giải pháp. Đây là hệ quả của sự phân tích trên, được thể hiện ở việc khẳng định những luận điểm, quan điểm của triết học Mác – Lênin hoặc đưa ra những luận điểm, quan điểm mới mang ý nghĩa thế giới quan, phương pháp luận. Bài viết phải tránh đi vào những giải pháp cụ thể, bởi như thế, vô hình trung, triết học lại làm thay các khoa học khác hoặc các ngành khác. Trên thực tế, triết học không bao giờ có thể làm thay những công việc cụ thể đó và không bao giờ đạt được những kết luận như các khoa học cụ thể trực tiếp đưa ra. Chúng ta không bao giờ được quên chức năng chính của triết học là thế giới quan và phương pháp luận. Đưa ra các giải pháp cụ thể là chức năng của các ngành khoa học cụ thể có liên quan. Cũng vì lý do đó mà chủ nghĩa Mác được chia thành ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong đó, chủ nghĩa cộng sản khoa học là hệ quả tất yếu của hai bộ phận kia. Vì vậy, nhiều tác phẩm của Mác thuộc chủ nghĩa cộng sản khoa học hơn là tác phẩm triết học.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Tất nhiên, để đạt được những điều này, ít nhất người viết phải có kiến thức triết học căn bản. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định đối với tính triết học của bài viết.
Có thể có rất nhiều người không đồng ý hoặc phản bác toàn bộ những kiến giải trên đây. Bởi lẽ, vấn đề tiêu chí của một bài viết có tính triết học và làm thế nào để bài viết có tính triết học không đơn giản chỉ như những nội dung mà tôi đã trình bày. Để có được cách lý giải thật sự thuyết phục và có tính khoa học, chúng ta cần đi sâu tìm tòi, tổng kết, tập hợp nhiều hơn nữa ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Mục đích của tác giả bài viết này chỉ nhằm nêu ra vấn đề tưởng như rất cũ, rất đơn giản (vì xưa nay chúng ta vẫn làm và làm thường xuyên) để góp vào việc xác định một hệ thống tiêu chí cụ thể, vừa giúp người thẩm định bài viết thuộc lĩnh vực triết học có cơ sở để đánh giá chuẩn xác, vừa giúp người viết khỏi lạc đề khi viết bài về lĩnh vực triết học và cũng là cơ sở để họ có thể tranh luận với người thẩm định. Với mục đích đó, tôi mong mọi người hãy đưa ra những tiêu chí của mình (vì bất cứ ai, với tư cách thầy giáo, người hướng dẫn, người phản biện, v.v., đều đã từng nhận xét tính triết học của một bài viết, cho nên họ đều đã có tiêu chí để đánh giá) và trên cơ sở đó, sớm hình thành nên hệ thống tiêu chí theo cấp độ sau:
- Chung nhất, khái quát nhất,
- Chi tiết hơn, cụ thể hơn,
- Hoàn chỉnh hơn, khoa học hơn.
Cuối cùng, tôi thừa nhận rằng, những tiêu chí mà tôi đưa ra ít nhiều còn mang tính chủ quan, vì chúng chưa được chứng minh và luận giải một cách đầy đủ, khoa học và chắc chắn còn nhiều vấn đề mà bài viết này chưa thể đề cập đến. Rất mong được mọi người quan tâm trao đổi./.
- Tiến sĩ, Phó trưởng phòng Triết học Mác – Lênin, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
- Đỗ Anh Thơ (Biên soạn). Những kiến giải về triết học khoa học. Nxb Hà Nội, 2006, tr.13 – 14.
NHẬN THỨC LUẬN CỦA NGÔ THÌ NHẬM BƯỚC TIẾN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII
TRẦN NGỌC ÁNH (*)(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Sống trong thời đại có những biến đổi xã hội sâu sắc, cũng giống như nhiều Nho sĩ Việt Nam đương thời, Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) đã quan tâm và suy nghĩ đến một số vấn đề triết học, lấy đó làm nền tảng cho những tư tưởng chính trị, nhân sinh và phương châm xử thế của mình. Trong bài viết này, thông qua vấn đề “lý”, tác giả muốn nêu lên những nhận thức mới mẻ của Ngô Thì Nhậm so với Tống Nho. Mặc dù chỉ là người kế thừa Tống Nho nhưng Ngô Thì Nhậm đã có những đóng góp riêng về mặt nhận thức luận, như cho rằng nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu vào bản chất sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài khi nhận thức; về tính tương đối của nhận thức… Những đóng góp này đã tạo ra một bước tiến của lịch sử tư tưởng triết học dân tộc thế kỷ XVIII.
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) là một nhân vật lịch sử nổi bật của Việt Nam thế kỷ XVIII. Thời đại của Ngô Thì Nhậm là thời đại biến loạn lịch sử dữ dội; danh giáo, cương thường bị đảo lộn và khủng hoảng tư tưởng sâu sắc. Đó là thời đại đã khiến con người, đặc biệt là tầng lớp sĩ phu, phải lật đi lật lại nhiều quan niệm truyền thống để không những hiểu cho đúng, cho phải đạo, mà quan trọng hơn, để có cơ sở cho hành động, cho sự lựa chọn một hướng đi, một phương châm xử thế. Ngô Thì Nhậm là một trong những học giả đương thời có ý thức xây dựng cho mình một phương pháp luận phù hợp với thực tế lịch sử. Rải rác trong các trước tác của Ngô Thì Nhậm, có thể thấy, ông đã quan tâm và suy nghĩ đến một số vấn đề triết học, lấy đó làm nền tảng cho những tư tưởng chính trị, quan niệm về nhân sinh và phương châm xử thế của mình. Một trong những vấn đề triết học mà Ngô Thì Nhậm tập trung suy nghĩ là phạm trù Lý.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trong lý học Tống Nho, mặc dù tồn tại hai cách lý giải về Lý theo hướng duy tâm và duy vật, nhưng quan niệm mang tính duy tâm khách quan là chủ đạo và phổ biến. Chu Hy cho rằng: “Vạn vật hữu nhất thái cực”, nghĩa là vạn vật đều do thái cực sinh ra. Đó là cái “lý nhất” của vũ trụ. Nhưng thái cực lại thể hiện trong mỗi sự vật, hiện tượng cụ thể, nên mỗi vật đều có “lý” của nó. Trong tư tưởng truyền thống, “lý” được hiểu là đạo lý, có nghĩa là con đường đúng đắn mà suy nghĩ và hành động của con người phải khuôn theo. Mặt khác, “lý” còn được coi như quy luật của sự vật, của thế giới, nhưng được lý giải trên cơ sở duy tâm khách quan: “lý” có nguồn gốc từ thái cực và “có cái lý ấy thì mới có sự vật ấy”. Các nhà Nho Việt Nam cùng thời với Ngô Thì Nhậm không bàn nhiều về “lý”. Bùi Dương Lịch chỉ quan tâm đến thiên chí, địa chí và hình thể núi sông. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác thì đi sâu vào khái niệm “khí” nhằm làm rõ cơ sở triết học cho lý luận nghề thuốc mà ông suốt đời theo đuổi. Còn Lê Quý Đôn, người bàn nhiều nhất về “Lý Khí” trong các học giả đương thời, nhưng trong Vân đài loại ngữ, ông cũng không chú tâm bàn sâu về “lý”, mà chỉ đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa “lý” và “khí” trong các sự vật.
Ngô Thì Nhậm đã kế thừa và phát huy quan niệm về “lý” của Tống Nho theo tinh thần duy vật và thực tiễn. Là một nhà chính trị ham hoạt động, Ngô Thì Nhậm cũng đề cập đến “lý” với tư cách đạo lý, nhưng chủ yếu ông quan tâm nhiều đến “lý” với tư cách quy luật, nhằm soi sáng thời thế và làm cơ sở lý luận cho phương châm hành động và thái độ ứng xử của mình trước những sự biến xã hội quá phức tạp và mau lẹ.
Trước hết, chịu ảnh hưởng của quan điểm lý học Tống Nho, Ngô Thì Nhậm cũng cho rằng, “lý” có nguồn gốc từ thái cực, “lý” bao trùm toàn bộ thế giới, chi phối sự vận động, biến hoá của trời đất và vạn vật. Ông khẳng định: “Sách truyện nghĩa của họ Trình nói: “buông ra thì ngập cả sáu cõi, cuốn lại thì lui về nơi kín đáo”. Sáu cõi và nơi kín đáo cũng chỉ là một “lý” mà thôi. Con người và trời đất cũng cùng chung một then máy”(1). Như vậy, theo Ngô Thì Nhậm, “lý”có tính phổ biến trong toàn vũ trụ. Ông cũng thừa nhận, mọi vật đều có “lý” của mình khi cho rằng, “suy rộng ra, tất cả các sự vật không cái gì là không có đạo lý”. Song, qua các trước tác để lại, khi bàn về “lý”, không thấy Ngô Thì Nhậm nhắc đến tư tưởng “có cái lý ấy thì mới có sự vật ấy” của Chu Hy. Phải chăng, Ngô Thì Nhậm, một người có thiên hướng và ham hoạt động thực tiễn, không quan tâm nhiều đến “lý” một cách trừu tượng, tư biện? Đối với Tống Nho, “lý” là cái có trước “khí” (duy tâm khách quan) và ít nhiều mang tính huyền diệu, thần bí. Còn Ngô Thì Nhậm, dù chỉ là người kế thừa, chứ không phải là người đề xuất nguyên lý, nhưng không phải vì thế mà ông không có những đóng góp riêng về mặt nhận thức luận. Với Ngô Thì Nhậm, “lý” không còn mang tính chung chung, trừu tượng, mà thường được giải thích cụ thể, có tính khách quan, phản ánh kết quả của sự quan sát thế giới, sự suy tư, chiêm nghiệm của riêng ông. Tư tưởng này đặc biệt thể hiện rõ trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Ngô Thì Nhậm khẳng định: “lý” – đó là “cái gì cần phải có ở trong vật”, “là việc phải làm như thế mới hợp”. “Lý” là cái vốn có của sự vật và việc làm của con người phải noi theo “lý” thì mới thành công. “Lý” là cái có thể nắm bắt được và do vậy, “lý” là cụ thể, là cái mà con người có thể nhận thức được. Rõ ràng, ở đây, “lý” được quan niệm như là quy luật của sự vật mà con người có thể nhận thức để làm cơ sở cho hành động. TrongKhông thanh (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh), khi trả lời câu hỏi “Nhà Nho nói Lý. Vậy thế nào là Lý?”, Ngô Thì Nhậm đã giải đáp: “Lý như cái thớ, cái đốt của cây”. Tư tưởng này của Ngô Thì Nhậm được hiểu: “Bản tính của Lý là có ngang, chếch, có cong, thẳng như cái thớ của cây… Hoa Ưu đàm nở hay rụng vốn không có sự liên can với mưa gió, (thế mà nói) có gió nó mới nở, có mưa nó mới rụng… mỗi vật đều có thiên tính tự nhiên của nó, do đó noi theo Lý mà không thông thì trở thành ngưng trệ”(2). Qua đây, có thể liên tưởng, khi nói “Lý như cái thớ, cái đốt của cây” là Ngô Thì Nhậm muốn nói “lý” không phải là cái trừu tượng, huyền vi, mà là cái cụ thể trong sự vật. Ông còn đề cập đến ý nghĩa thực tiễn của việc nắm được “lý” của sự vật: khi chẻ cây, nếu biết được thớ và đốt của nó và chẻ dao theo đúng thớ của nó thì công việc sẽ trôi chảy dễ dàng. Điều đó hàm chứa tư tưởng triết học: trong mọi việc, nếu nắm được quy luật, làm theo quy luật thì sẽ thành công. Với Ngô Thì Nhậm, mọi vật đều theo “lý tự nhiên”, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người và con người phải thuận theo nó. Ông viết: “Nước chảy đông tây, cần giếng chuyển trục. Hoa nở sớm muộn, con kiến bò quanh… Nước xuôi thì thả thuyền. Đường hiểm thì dừng ngựa. Một dừng một đi. Đều không phải ý ta”(3).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Mặc dù khẳng định tính khách quan của “lý” và con người có thể nắm được “lý” và cần phải thuận theo “lý”, nhưng Ngô Thì Nhậm cũng nhận thấy “lý” của sự vật là cái không dễ gì nắm bắt, càng không thể “làm chủ” hoàn toàn được nó. Đặt ra câu hỏi: “Muốn noi theo Lý thì phải làm như thế nào?”, Ngô Thì Nhậm đã tự trả lời: “Cái Lý không noi theo hết được!”. Theo diễn giải của các đồ đệ của Ngô Thì Nhậm thì “chỉ những bậc đại lực lượng mới biết “không noi theo Lý hết được”. Đó là những người “đứng trước sự mà sự không lôi kéo mình được, đứng trước vật mà vật không đồng hoá mình được”(4), cho nên có thể “ung dung thoả mái ở trong cái Lý ấy mà lại cũng vượt lên trên, vượt ra ngoài cái Lý ấy”. Có thể nói, tư tưởng “Lý không noi theo hết được” của Ngô Thì Nhậm là một quan điểm nhận thức sâu sắc. Nó cho thấy ông đã ít nhiều hiểu rõ tính phức tạp và vô hạn của quá trình nhận thức đối với con người.
Từ sự quan sát, nhìn nhận tinh tế về thế giới, Ngô Thì Nhậm còn đi đến quan niệm đặc sắc về tính phổ biến và tính đặc thù của “lý”. Đó là tư tưởng về “lý thuận” và “lý nghịch”. “Lý thuận” như trăm dòng sông đều đổ xuôi về biển Đông. “Lý nghịch” như dòng Nhược thuỷ chảy ngược về Tây, như hoa cúc nở vào mùa thu. Ông viết: “Muôn sông đều chảy về đông, chỉ có Nhược thuỷ chảy về tây. Hoa cúc không nở cùng với trăm hoa” và “Ngựa gặp đường phẳng đi bon bon. Gốc cây chằng chịt bửa không ra… Đường phẳng là ngựa thuận Lý, gốc rắn là cây nghịch Lý, Lý có thuận nghịch, cho nên người không chấp trước (câu nệ) thì không bắt buộc phải noi theo Lý”(5). Bởi thế, “lấy lẽ thường mà nói, Lý không có hai phải. Nam nữ không tự trao tay cho nhau, đó là Lý. Nhưng chị dâu chết đuối, em giai chồng vớt lên, phải chăng gọi là phi Lý được?”(6). “Cây trúc thì ngọn ở trên, đó là Lý tự nhiên. Đến như chặt trúc làm gậy, tay cầm đằng gốc, thì ngọn lại trở xuống dưới, ấy là Lý chăng, phi Lý chăng?”(7). Ngô Thì Nhậm hiểu rõ “lý thuận” là phổ biến, là thông thường, dễ nhận thức; bởi vậy, ông rất chú ý đến “lý nghịch”, tức là chú ý đến các sự vật phát triển một cách đặc biệt. Theo Ngô Thì Nhậm, chỉ có sự vật đặc biệt mới có thể phát triển một cách đặc biệt: “Muôn sông chảy về đông, đó là Lý, trăm hoa đua nở mùa xuân, đó là Lý. Phương đông là chỗ thở hút cho nên mọi sông đều đổ về; mùa xuân là thời sinh dục, cho nên cỏ hoa đều nở. Nước Nhược thuỷ chìm được lông là vì chất nó thanh khiết, không bao dung tục vật. Hoa Cúc thắng được sương tuyết là vì tính nó cao ngạo, không chịu ngang hàng với vật khác. Thanh khiết là vì cương nghị, cho nên quy tụ ở phương tây, là nơi đất cứng rắn. Cao ngạo là vì quật cường, cho nên nở(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
- mùa thu, là thời khắc nghiệt. Nếu Nhược thuỷ không phải là tinh tuý của nước, hoa Cúc không phải là tinh tuý của hoa, thì làm sao mà trồi lên khác hẳn với mọi vật?”(8). Có thể là tự phát, nhưng Ngô Thì Nhậm đã thể hiện một phương pháp tư duy đúng đắn: nhận thức cần xuất phát từ sự vật thực tế, từ sự quan sát, tìm tòi ở chính các sự vật khách quan.
Trong lý học Tống Nho, Chu Hy cho rằng, “lý tại tiên, khí tại hậu”, “khí” chỉ là khí chất để tạo thành sự vật, còn “lý” là nguồn gốc hình thành và là bản chất của sự vật. Theo Chu Hy, sự vật nào cũng có “lý” và “khí”, “lý” và “khí” không tách rời nhau. Với quan điểm “lý” mới là nguồn gốc và bản chất của sự vật nên Chu Hy chủ trương phải “cùng lý”, tức là phải tìm hiểu được cái lý tận cùng, cái đạo tất yếu chi phối vạn sự, vạn vật trong vũ trụ. Nếu chưa tìm hiểu đến “cùng lý” thì chưa biết một cách rõ ràng, đúng đắn, đến nơi đến chốn về sự vật.
Hiển nhiên, nhận thức luận “cùng lý” của Tống Nho như đã nêu trên, đã chi phối quan điểm nhận thức của Ngô Thì Nhậm cũng như các nhà Nho Việt Nam cùng thời. Với Ngô Thì Nhậm, thế giới khách quan luôn là đối tượng của nhận thức và nhận thức của con người không thể dừng lại ở hiện tượng, mà phải đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Xem xét sự vật, theo ông, không được dừng ở chỗ cảm quan, trực giác, mà phải tìm hiểu sâu sắc nguyên nhân của sự vật. Trong Ký đình thuỷ nhất, Ngô Thì Nhậm viết: “Sông núi là chủ của trăng gió, trăng gió là khách của núi sông. Nếu chỉ biết thấy cao cho là núi, thấy dài cho là sông, thấy mát cho là gió, thấy trong cho là trăng, thì mới biết nhìn cái hình bên ngoài mà chưa biết cái ý bên trong”(9). Ngô Thì Nhậm hiểu rõ, nhận thức hình dạng bề ngoài của sự vật, cái mà lý học Tống Nho gọi là “hình nhi hạ”, chẳng có gì là khó, cái khó là tìm ra cái “lý” ẩn giấu bên trong sự vật. Đấy chính là điều quan trọng nhất phải đạt tới trong quá trình nhận thức. Ông cho rằng, điều cốt yếu là phải thông hiểu được lý lẽ của trời đất: “Vạn quy vào “một”, hợp cái khác nhau vào chỗ “nhất quán” vào cái “lý” cái “số” của trời đất”. Phê phán lối nhận thức chỉ biết dừng lại ở hình dáng, diện mạo của sự vật mà không chịu tìm hiểu đến nguồn gốc và bản chất làm nên sự vật, Ngô Thì Nhậm chỉ rõ: “Người đời nếu chỉ căn cứ vào núi mà xem núi, thì chỉ biết nó cao không lường được, mà không biết tìm hiểu nguyên nhân núi kia làm sao mà cao; nếu chỉ căn cứ vào nước mà xem nước, thì chỉ biết nước sâu không thể lường được, mà không biết tìm hiểu nguyên nhân nước kia vì sao mà sâu. Đó là cái thói quen chỉ biết học thuộc từ chương, nó là một bệnh lớn về tâm thuật của kẻ học giả”(10).
Nhận thức phải hướng tới bản chất của sự vật, phải “từ thô mà vào tinh” (từ hiện tượng nắm bản chất) – đó là tư tưởng nhất quán của Ngô Thì Nhậm. Trong ký Tự mục đình, từ cái đình làng, Ngô Thì Nhậm phân tích và chỉ rõ hai mặt: hình, khí và lý, đạo của sự vật: “Nơi người ta tụ họp với nhau thì có “đình”. Nơi đó, người ta đặt tên đình theo hình, sắc của trời đất, hoặc theo sự vật, hoặc theo dáng dấp, hoặc nữa theo cái lý của hình sắc, sự vật, dáng dấp. Nhưng tóm lại, cần phải hiểu rằng: “hình” trở lên là “đạo”, “hình” trở xuống là “khí”. Đình là cái thể hiện cái “dụng” của “khí”. Song mặt khác, người ta cùng sinh sống ăn ở với nhau trong khoảng trời đất, noi cái đạo “trung” mà trời phú cho, ưa cái phép “thường” mà mình vẫn giữ, để có cái vui trong luân thường, cái yên trong làng xóm. Do đó, nó thể hiện cái “thể” của “đạo”(11).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Quan điểm về nhận thức nêu trên của Ngô Thì Nhậm là hợp lý và có nguồn gốc ở cái học “cùng lý” của Tống Nho. Nhưng trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm đã không dừng lại ở đó. Theo ông, “bản tính” của sự vật thể hiện ở “lý”, “bản tính của Lý là có ngang, chếch, cong, thẳng như cái thớ của cây”. Việc trong thiên hạ có cái thường, có cái biến, nhưng “ứng phó với cái biến mà không mất bản tính, thì chỉ có người đại lực lượng mới làm được”. Như vậy, theo Ngô Thì Nhậm, phải là những người “đại lực lượng” (người có trí tuệ siêu việt như Khổng Tử, Thích Ca) thì mới nhận thức được “bản tính” và “lý” của sự vật. Lý học Tống Nho cũng đòi hỏi con người phải tìm đến cái “cùng lý” của sự vật, nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa “lý” và “bản tính” (mối quan hệ giữa “quy luật” và “bản chất”) của sự vật. Ngô Thì Nhậm, tuy cũng xuất phát từ đạo học “cùng lý” của Tống Nho, nhưng với sự sáng tạo riêng, đã phát triển thêm những tư tưởng đó một cách xuất sắc.
Trong vấn đề nhận thức, Ngô Thì Nhậm còn chủ trương phải coi trọng nội dung hơn hình thức. Ông nói: “Y phục hình thức, không phải ý trời ở đó”. Bởi thế, “y phục hình thức là cái văn ở bên ngoài, đạo đức nhân nghĩa là cái chất ở bên trong. Người quân tử nên sáng (minh) bên trong mà không nên tìm kiếm ở bên ngoài”(12). Mặt khác, Ngô Thì Nhậm cũng thấy rõ sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài khi nhận thức sự vật. Quan điểm của ông được thể hiện rõ trong thiên Biểu lý thanh (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh): “Thanh có biểu (ngoài), lý (trong), thực ra chỉ có một… Hai cái đó đi đôi với nhau mà không trái ngược nhau. Học giả phải thấu suốt Biểu (ngoài), Lý (trong)”(13).(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
- Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm còn thể hiện quan niệm vềtính tương đối của nhận thức. Đặt ra vấn đề: “trong thiên hạ vật gì là tốt?”, Ngô Thì Nhậm đưa ra quan điểm: “Mọi vật đều tốt cả. Vật gì ta thích thì tốt, ta không thích thì không tốt. Cho nên có cái tốt mà không tốt, có cái không tốt mà tốt. Bởi thế, “nào thiện, nào ác, chưa chắc đã có cái gì là nhất định”. Rõ ràng, quan niệm của Ngô Thì Nhậm vừa thể hiện cái nhìn biện chứng về sự vật, vừa thấy rõ mọi kết quả nhận thức chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, “vật vốn không nhất định là tốt, không nhất định là không tốt. Cho nên người ở trong núi, trong thung lũng thì sở thích là áo cỏ, hang đất; nếu lấy mũ áo văn vật mà nói với họ thì họ lấy làm kỳ lạ… Nước La Sát cho hếch mũi, vẩu răng là đẹp, nhưng thấy ai mày ngài, mắt phượng thì sợ hãi gào khóc mà chạy trốn”(14). Điều đó có nghĩa là, không thể coi tốt và xấu nói riêng, tri thức về sự vật nói chung là cố định, tuyệt đối, mà phải gắn nó với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Như vậy, có thể thấy, tư tưởng triết học, trong đó có nhận thức luận, của Ngô Thì Nhậm có nhiều yếu tố đặc sắc, có nét mới mẻ và sáng tạo. Bước đầu, qua nghiên cứu, chúng tôi cố gắng trình bày một số tư tưởng triết học độc đáo của Ngô Thì Nhậm như một sự khẳng định bước tiến của tư tưởng triết học dân tộc thế kỷ XVIII. Cùng với các nhà nghiên cứu, chúng tôi hy vọng sẽ còn tiếp tục trở lại vấn đề này./.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
* Tiến sĩ, Giảng viên chính Khoa Mác – Lênin, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng.
- Cao Xuân Huy – Thạch Can (Chủ biên). Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, q.II. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 177.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I (người dịch: Cao Xuân Huy). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 61-62.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I. Sđd., tr.55.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.55.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.57.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.57.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.63.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.58.
- Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, q.II, Sđd., tr.170.
- Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, q.II, Sđd., tr.141.
- Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, q.II, Sđd., tr.177.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.137.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.125.
- Thơ văn Ngô Thì Nhậm, t.I, Sđd., tr.125.
GIỚI THIỆU SÁCH:
MỸ HỌC MÁC – LÊNIN (CHO TRÌNH ĐỘ SAU ĐẠI HỌC NGÀNH VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT)
Tác giả: GS,TS. Đỗ Huy
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, 468 tr.
Công trình này là thành quả nghiên cứu và giảng dạy mỹ học của GS,TS. Đỗ Huy cho trình độ sau đại học ngành văn hoá nghệ thuật trong mấy thập niên qua. Chào mừng thành công của Đại hội Đảng lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho xuất bản tác phẩm này.
Công trình gồm 6 chương. Chương 1 trình bày hệ thống lý thuyết về bản chấtcủa mỹ học nhìn từ các quan điểm khác nhau. Trên cơ sở các tác phẩm và tác giả, chương này đã phân tích ba khuynh hướng mỹ học cơ bản trước Mác bàn về các phương diện thẩm mỹ của thế giới: khuynh hướng của Platon và Hêghen; khuynh hướng của Cantơ, Hium và khuynh hướng của Burker, Tsécnưsépxki.(Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Coi mỹ học Mác – Lênin là giai đoạn phát triển mới trong lịch sử mỹ học, tác giả đã chỉ rõ tính cách mạng của mỹ học Mác – Lênin. Các tư tưởng về khách thể thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật của C.Mác và Ph.Ăngghen được đem đối chiếu với các tư tưởng mỹ học trước đó, cho thấy tư tưởng mỹ học của các ông là phong phú, sâu sắc, đúng đắn và toàn diện.
Chương 2 trình bày bản chất của quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực. Coi quan hệ thẩm mỹ gồm ba bộ phận: đối tượng, chủ thể và nghệ thuật, tác giả phân tích các quan hệ ngoài và trong thẩm mỹ. Chương này đặc biệt nêu lên sự đúng đắn của mỹ học Mác – Lênin trong việc lý giải tính vô tư, tính hình tượng, tính xúc cảm, tính thưởng ngoạn và bản chất xã hội của các quan hệ thẩm mỹ. Các quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực được tác giả trình bày theo những quan điểm khác nhau. Các tư tưởng mỹ học của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về bản chất của quan hệ thẩm mỹ được giới thiệu tương đối tỉ mỉ. Cách giải thích sự khác nhau giữa các quan hệ thẩm mỹ và các quan hệ khác dựa trên thực tiễn thẩm mỹ là có cơ sở khoa học.
Chương 3 nghiên cứu mặt khách thể trong quan hệ thẩm mỹ. Đó là cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài. Coi cái đẹp giữ vị trí trung tâm ở mặt khách thể của quan hệ thẩm mỹ, tác giả đã trình bày hệ thống các lý thuyết khác nhau về bản chất của cái đẹp. Nêu lên các khuyết điểm chủ yếu trong lý luận về cái đẹp của mỹ học trước Mác, chương này đã trình bày tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về cái đẹp. Các luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguồn gốc, bản chất, sự vận động và những giá trị của cái đẹp đã vượt xa các nhà mỹ học trước đó và đặt nền móng cho cách giải quyết mới và khoa học về cái đẹp.
Chương 4 nghiên cứu mặt chủ thể của các quan hệ thẩm mỹ – vai trò của chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ và phân tích các hoạt động của chủ thể từ tri giác, biểu tượng, phán đoán đến nhu cầu, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ. Dựa trên phản ánh luận của V.I.Lênin, chương này trình bày thực tiễn hoạt động thẩm mỹ của các chủ thể xoay quanh cái đẹp. Phân tích các hoạt động xúc cảm trong thẩm mỹ và ngoài thẩm mỹ gắn với cái đẹp, chương này đã vạch rõ những quan điểm phiến diện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan về bản chất tâm lý của hoạt động thẩm mỹ. Đóng góp quan trọng của chương này vào hệ lý luận mỹ học hiện đại là việc trình bày, phân tích sâu sắc năm hình thức chính của hoạt động chủ thể thẩm mỹ: hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo, biểu hiện và tổng hợp thẩm mỹ.
Chương 5 nghiên cứu ba cụm vấn đề quan trọng nhất của thế giới nghệ thuật: khái niệm và nguồn gốc của nghệ thuật; bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật; bản chất xã hội của nghệ thuật. Dựa trên tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen coi nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc, tính nhân dân của nghệ thuật, chương này đã phân tích sâu tính bất đồng giữa nghệ thuật và phát triển kinh tế; đồng thời làm rõ bản chất tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại của mọi nghệ thuật hiện thực. Trong chương này, tác giả đã nghiên cứu nghệ thuật với tư cách sản phẩm của sáng tạo, mô hình hoá tình cảm thẩm mỹ. Các vấn đề hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật được trình bày thành các tiểu mục quan trọng của chương sách.
Chương 6 – chương cuối cùng nghiên cứu và trình bày bản chất của giáo dục thẩm mỹ, các nguyên tắc và các quan điểm trong giáo dục thẩm mỹ; Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ trong việc xây dựng nhân cách phát triển toàn diện. Từ thực tiễn xã hội ở nước ta hiện nay, chương này đã làm rõ bản chất của giáo dục thẩm mỹ vì những giá trị cao quý của con người Việt Nam; đồng thời tập trung làm rõ các luận điểm cơ bản của Đảng ta về phương thức và mục tiêu giáo dục thẩm mỹ. Đây là chương sách khép lại của cuốn sách, do đó cũng đề xuất nhiều vấn đề để hoạt động thẩm mỹ của xã hội ta luôn đúng hướng và không ngừng tạo ra các đề kháng cần thiết chống lại những hiện tượng phi thẩm mỹ. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu có chất lượng khoa học và có tính sư phạm. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./. (Tiểu luận: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng)
Trên đây là tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết xây dựng Đảng, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.
Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562