Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại

Rate this post

Dưới đây là bài Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại trên chuyên mục tiểu luận triết học.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGEN TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC

1- Cơ sở lý luận :

Phriđrích Hêgen ( 1770-1831) là nhà triết học – bác học vĩ đại của Đức, Ông là người hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện chứng cổ điển đức. Hêghen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học. Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Hệ thống Hêgen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên… Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại… Nếu đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng… Nói chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học, nhân loại đã lập nên biết bao chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn – tư duy triết học, tư duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên

không những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học.(Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

1.2  Vai trò của của phép biện chứng duy tâm của Hêgen trong nền triết học

  • Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hêgen

Marx lấy lại của Hêgen phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ Marx thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong biện chứng pháp của Hêgen đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Hêgen đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do  mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hêgen lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của tinh thần.

Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen lại nắm được cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu được điểm này thì cần phải xét đến nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen.

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

1.2.2   Nguồn gốc lịch sử chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen

Biện chứng pháp duy tâm của Hêgen là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức từ Kant; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng – thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong – hàng hóa là sản sinh ra(Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài người – cái thế giới hàng hóa – là do con người tạo ra.

Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan.

Trong bản đề án về Feuerbach gồm 11 điểm, Marx viết rằng trong chủ nghĩa duy vật trước kia người ta chỉ nắm được vật chất về phần tĩnh của nó, tức là trong phạm vi nó được phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con người. Còn phần hoạt động thì chủ nghĩa duy vật cũ chưa nắm được. Vì vậy nó chỉ được đề cao trong phạm vi tinh thần, duy tâm. Nhưng tương đối với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc đề cao này cũng đã là một bước tiến bộ. Vì lao động tinh thần được nêu lên đó cũng phản ánh được phần nào phương thức sản xuất mới, và thực ra nó cũng bắt nguồn từ lao động thực sự.

Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.

Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.

Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte [2] đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.

Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái «tôi» và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).

Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó – cái tôi vẫn là tuyệt đối.(Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

Triết học của Hêgen vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn. Phương pháp của Hêgen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hêgen lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêgen chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hêgen là ở chỗ đó.

CHƯƠNG II: NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC HÊGEN

1. Hiện tượng luận của tinh thần

Luận lý học.

Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tượng của tinh thần và cuốn dưới nói về hệ thống phạm trù. Nhưng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu tượng như của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hegen không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được và trình bày theo quá trình biện chứng của nó, nhưng trước khi đi đến trình độ đó, phải thanh toán những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái niệm, chưa thực hiện lý luận triết học. Hêgen phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hêgen.(Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

Trong cuốn Hiện tượng luận của tinh thần (Phenomeno- logie des Geistes), Hêgen phê phán mọi tư tưởng triết học trước đó, qua mọi hình thái ý thức theo quá trình biện chứng của nó cho đến luận lý học của Hêgen, tức là biện chứng pháp duy tâm mà Hêgen quan niệm.

2.   Ý THỨC CẢM GIÁC

Ý thức cảm giác là cái ý thức nhằm cái trước mắt: cái này, ở đây, bây giờ. Theo ý tứ của nó thì nó nắm được thực tại tuyệt đối. Thường những chủ nghĩa chống triết học duy tâm dựa vào cái mà tôi nắm ở đây, bây giờ, để mà phê phán những lý luận cao siêu của các triết gia. Chúng ta phân tích nội dung thực tế của cái ý thức cảm giác ấy. (Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

2.1.2 Phân tích đối tượng của ý thức cảm giác:

Cái này, ở đây, bây giờ là cái gì? có nhắc đến thế giới không?

Xét theo nội dung thì nó luôn luôn biến chuyển vì thế «tôi» không nắm được gì hết. Thực tế, ta chỉ nắm được cái đại thể: lúc nào cũng là lúc bấy giờ, chỗ nào cũng là ở đây, cái gì cũng là cái này. Vậy ta không nắm được cái cá thể. Chủ nghĩa cảm giác có thể trả lời: Đối tượng biến chuyển luôn luôn, nhưng vẫn là tôi nắm nó.

2 .1.3 Xét cái tôi ấy là gì?

 Tôi nhằm cái này. Cái tôi nhằm như vậy tưởng là vững chắc, nhưng bên cạnh có người khác cũng nhằm cái này, vì ai cũng là tôi cả nên tôi ấy vẫn là đại thể. Cho nên ý thức cảm giác cũng không căn cứ được vào cái tôi cá thể.

2.1.4 Quan hệ giữa chủ quan và khách quan

 Chủ quan cũng như khách quan không phải là cá thể. Vậy quan hệ giữa chủ quan và khách quan có phải là cá biệt không?

Phân tích quan hệ ấy trong cảm giác thì chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cái thái độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối tượng trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái đại thể. Khi tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút, v. v… Vậy quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.

Kết luận là ý thức cảm giác tưởng là nắm được một cá biệt rất là vững chắc. Nhưng thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhưng nó không nắm được cái mà nó phải nắm là cái đại thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác – chủ nghĩa kinh nghiệm – chống lại chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không do kinh nghiệm trực tiếp mà nắm được, mà phải do khái niệm mới nắm được. Hegel phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật.

3.TRI GIÁC (Tiểu luận: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại)

Ý thức cảm giác tự nó mâu thuẫn với nó. Tri giác là ý thức nắm đối tượng với thuộc tính đại thể của nó. Cái bàn với hình thể, màu sắc, trọng lượng. Những thuộc tính ấy định nghĩa cái nội dung thực tại của đối tượng khách quan. Trong tri giác tôi đã nắm được nội dung chân chính của đối tượng. Tôi đã định nghĩa được rồi. 

Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài: Triết học Hêghen và đời sống văn hoá tinh thần của thời đại, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liêu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/ZALO: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Contact Me on Zalo