Dưới đây là Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình mà Ad muốn chia sẻ tới các bạn đang học chuyên ngành Luật, đặc biệt là các bạn đang tìm đề tài về Luật hôn nhân và gia đình thì đây là mẫu tài liệu tuyệt vời để các bạn tham khảo vận dụng ngay vào bài làm của mình.
Tuy nhiên do thời gian gấp rút AD chỉ kịp chia sẻ với các bạn bài Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, thời gian tới AD sẽ cố gắng cập nhật thật nhiều bài mẫu hơn để các bạn, nhớ thẽo dõi Viettieuluan để cập nhật thật nhiều tài liệu mới nha.
Ngoài ra, AD còn nhận viết các bài Tiểu luận, báo cáo, khóa luận,… đa dạng phong phú các đề tài ngành nghề. Nếu thời gian gấp rút không làm bài được hay muốn thuê viết hãy chủ động liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan nhé!
Phần mở đầu trong bài Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình
1. Tính cấp thiết của đề tài Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình
Trong xã hội, mối quan hệ về hôn nhân và gia đình luôn tồn tại, hiện hữu và trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của mỗi người. Có thể nói gia đình chính là tế bào của xã hội, gia đình có tốt thì xã hội mới tốt và ngược lại, xã hội tốt đảm bảo gia đình tốt. Chính bởi vậy, cách thức vận động của những mối quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của xã hội, của đất nước. Luật Hôn nhân và giao đình ra đời nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam, qua đó xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, vững bền đồng thời xây dựng cộng đồng, đất nước hoàn thiện, phát triển. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Với tầm quan trọng nêu trên, nhà trường đã đưa môn học Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây gọi chung là “HNGĐ”) vào chương trình học và trở thành một học phần thiết thực, có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với mỗi sinh viên. Thông qua quá trình giảng dạy, bản thân em cũng như những học viên khác đã được tiếp cận và tiếp thu nhiều kiến thức quan trọng liên quan đến môn học, bao gồm: khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ; quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình; kết hôn; quan hệ vợ, chồng; quan hệ cha, mẹ, con; nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình; chấm dứt hôn nhân; quan hệ pháp luật và hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Trong phạm vi bài thu hoạch này, thông qua những kiến thức đã được thầy cô truyền đạt trong suốt học kỳ vừa qua, em sẽ tổng hợp lại một cách khái quát nhất những kiến thức trọng tâm của môn học, đồng thời đưa ra một số đánh giá cá nhân về quá trình học tập và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện hơn chất lượng học, giảng dạy đối với bộ môn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thiện bài thu hoạch, với mục đích đưa ra một cách tổng quan nhất toàn bộ nội dung liên quan tới môn học, sinh viên sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, tổng hợp một cách khái quát các nội dung trọng tâm của môn học.
Thứ hai, áp dụng thực tiễn đối với môn học thông qua tình huống thực tế.
Thứ ba, khẳng định những kết quả sau khi kết thúc môn học về kiến thức, cách giảng dạy của giảng viên và đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện.
XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN
Phần nội dung bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình
1. Nội dung nhận thức của sinh viên về môn học
Nội dung môn học Luật HNGĐ được xây dựng dựa trên trình tự sắp xếp các quy phạm pháp luật tại Luật HNGĐ, đi từ vấn đề chung, cơ bản nhất tới những quan hệ pháp luật chi tiết, cụ thể có liên quan. Có thể tổng hợp lại những kiến thức trọng tâm liên quan đến môn học như sau:
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm Luật Hôn nhân và gia đình
Trước hết, để tìm hiểu về khái niệm Luật HNGĐ, cần làm rõ và hiểu được hai thuật ngữ cấu thành nên khái niệm này là “hôn nhân” và “gia đình”. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Thứ nhất, về thuật ngữ “hôn nhân”.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, hôn nhân được định nghĩa là “quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Theo đó hôn nhân có năm (5) đặc trưng cơ bản sau đây:
(i) Là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ (pháp luật Việt Nam chưa có quy định công nhận hôn nhân của người đồng giới);
(ii) Là sự liên kết hoàn toàn tự nguyện của nam và nữ;
(iii) Là sự liên kết bình đẳng giữa vợ và chồng;
(iv) Là sự liên kết theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về thuật ngữ “gia đình”.
Khoản 2 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 đưa ra định nghĩa gia đình như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của luật này”. Bản thân gia đình mang 3 chức năng chính là duy trì nòi giống, giáo dục và kinh tế.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể hiểu rằng “Luật Hôn nhân và gia đình thực chất là một ngành luật trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, về nhân thân và tài sản”.
1.1.2. Nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình
Luật HNGĐ được xây dựng, ban hành căn cứ theo những nguyên tắc nhất định, là nền móng, kim chỉ nam xuyên suốt hệ thống quy phạm pháp luật, cụ thể”
Thứ nhất, hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Sự tự nguyện trong hôn nhân được thể hiện ngày từ khi kết hôn cho tới khi chung sống và quyết định ly hôn, không phải chịu sự ràng buộc hay phụ thuộc vào quyết định của bất kỳ chủ thể nào khác. Bên cạnh đó, vợ chồng trong hôn nhân luôn được đảm bảo bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong suốt cuộc hôn nhân.
Thứ hai, hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN MẪU ĐIỂM CAO
Thứ ba, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
1.2. Quan hệ pháp luật Hôn nhân và gia đình
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật Hôn nhân và gia đình
Về khái niệm, quan hệ pháp luật HNGĐ được hiểu là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình và được các quy phạm pháp luật HNGĐ điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật HNGĐ có 4 đặc điểm chính: (i) Chủ thể trong quan hệ pháp luật HNGĐ là cá nhân, có tư cách của người chồng, người vợ, có thể là tư cách người cha, người mẹ; (ii) Quan hệ pháp luật này chỉ diễn ra ở một phạm vi hẹp trong phạm vi gia đình và giữa các thành viên gia đình với nhau; (iii) Đây là quan hệ pháp luật mang tính bền vững, lâu dài, không xác định thời hạn kết thúc; (iv) Nội dung chính của quan hệ pháp luật này là các quan hệ về nhân thân, tình cảm, quan hệ tài sản trong Luật HNGĐ là thứ yếu.
1.2.2. Thực hiện và bảo vệ quyền Hôn nhân và gia đình
Việc thực hiện và bảo vệ quyền HNGĐ được dựa trên ba (3) nội dung chính:
(i) Tuân thủ theo quy định của Luật HNGĐ. Theo đó, các thành viên trong gia đình xử sự với nhau dựa trên yếu tố tình cảm, trách nhiệm, phong tục, tập quán, đạo đức;… Mỗi thành viên trong gia đình phải ý thức về nghĩa vụ, vừa thể hiện bản sắc dân tộc, vừa không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật HNGĐ. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
(ii) Bảo vệ quyền hôn nhân và gia đình phải phụ thuộc vào nguyên tắc chung của Luật. Sự bảo vệ này tồn tại cùng với sự tồn tại của gia đình, mục đích xây dựng hôn nhân, gia đình hạnh phúc, bền vững; không làm tổn hại đến lợi ích của con cái chưa thành viên, người chưa thành niên là chủ thể đặc biệt của Luật HNGĐ.
(iii) Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ HNGĐ được tiến hành bằng nhiều biện pháp: khen thưởng, khuyến khích; cưỡng chế, truy cứu trách nhiệm hình sự, dân sự,…
1.2.3. Căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật Hôn nhân gia đình
Thứ nhất, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật HNGĐ bao gồm: kết hôn, sinh con, xin con nuôi, ly hôn.
Thứ hai, sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật HNGĐ bao gồm: thay đổi quyền nuôi con sau khi ly hôn, vợ chồng ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng.
Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phục hồi quan hệ pháp luật HNGĐ bao gồm: phục hồi lại quan hệ hôn nhân có từ trước khi người vợ, chồng bị tuyên bố đã chết trở về mà người vợ, chồng đó chưa kết hôn; phục hồi lại pháp luật giữa cha mẹ và con do chấm dứt việc nuôi con nuôi và gia con nuôi về cho cha mẹ đẻ.
1.3. Kết hôn và những điều kiện kết hôn
Kết hôn được hiểu là cơ sở hình thành nên gia đình, trong đó có các thành viên xử sự đúng mực là góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, kết hôn được hiểu là “việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Việc kết hôn phải đảm bảo các điều kiện nhất định và có thể bị hủy trong trường hợp trái quy định của pháp luật.
1.3.1. Các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Hôn nhân gia đình
Điều kiện kết hôn được hiểu là những tiêu chí, yêu cầu bắt buộc, là những quy định do nhà nước ban hành mà theo đó buộc nam, nữ khi kết hôn phải tuân thủ những tiêu chí đó. Theo quy định tại Điều 8 Luật HNGĐ 2014, điều kiện kết hôn bao gồm:
Thứ nhất, về độ tuổi: nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được quyền kết hôn. Việc xác định độ tuổi kết hôn này được căn cứ trên sự phát triển về tâm sinh lý, sức khỏe trung bình nhằm đảm bảo người kết hôn có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm với gia đình và xã hội, có thể lao động làm ra của cải nuôi sống gia đình.
Thứ hai, về ý chí tự nguyện: việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định. Chỉ có khi kết hôn trên cơ sở tự nguyện thì mục đích hôn nhân với đạt được.
Thứ ba, người kết hôn không bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo đó, người kết hôn phải đảm bảo có đầy đủ nhận thức làm chủ hành vi mới có thể ra quyết định về việc kết hôn hay không, hay nói cách khác mới đạt được sự tự nguyện về ý chí khi kết hôn.
1.3.2. Kết hôn trái pháp luật
Kết hôn trái pháp luật được định nghĩa tại khoản 6 Điều 3 Luật HNGĐ “là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn” theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật thì dù việc kết hôn đã được cơ quan hộ tịch cấp Giấy chứng nhận kết hôn nhưng việc kết hôn đó không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ do vi phạm các điều kiện được pháp luật quy định.
Việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật và không được nhà nước bảo hộ. Hình thức xử lý được áp dụng tùy theo hành vi vi phạm và mức độ vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật quy định chế tài tương ứng với hành vi vi phạm và mức độ vi phạm theo pháp luật dân sự, hình sự hoặc hành chính. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Khi việc kết hôn bị hủy do trái pháp luật thì sẽ tạo ra hậu quả pháp lý: (i) Hai bên chấm dứt quan hệ như vợ chồng; (ii) Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con giải quyết theo quy định khi ly hôn; (iii) quan hệ tài sản, nghĩa vụ của hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
Theo quy định của Luật HNGĐ 2014, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được hình thành từ khi phát sinh quan hệ hôn nhân và kết thúc khi quan hệ hôn nhân đó chấm dứt. Nội dung của các quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và tài sản.
1.4.1. Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng có thể chia làm 3 loại như sau:
Thứ nhất, về mặt tình cảm, vợ chồng phải chung thủy thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 19 Luật HNGĐ 2014, theo đó những lợi ích về mặt tinh thần, tình cảm không mang nội dung kinh tế và cũng không phụ thuộc vào yếu tố tài sản.
Thứ hai, về sự tự do dân chủ, vợ và chồng có vai trò bình đẳng, tự do trong việc quyết định, lựa chọn những vấn đề liên quan đến cuộc sống, hôn nhân của mình trên cơ sở tôn trọng danh dự, tín ngưỡng của đối phương. Cụ thể các quy định về: lựa chọn nơi cư trú của vợ, chồng; tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; yêu cầu ly hôn;…
1.4.2. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng
Liên quan đến vấn đề tài sản, pháp luật HNGĐ có quy định các quy phạm liên quan tới: tài sản chung, tài sản riêng, cấp dưỡng, thừa kế.
Thứ nhất, về tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với tài sản chung, vợ và chồng cùng nhau tạo lập và có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
Thứ hai, về tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Thứ ba, về quyền cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 107 Luật HNGĐ, vợ và chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Cần làm rõ rằng nghĩa vụ này chỉ phát sinh sau khi vợ chồng ly hôn và được áp dụng khi: Vợ, chồng thật sự túng thiếu, khó khăn và có đơn yêu cầu và Vợ hoặc chồng có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thứ tư, về quyền thừa kế.
Vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền thừa kế tài sản không phụ thuộc vào di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Không những vậy, trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; đang xin ly hôn; người đang là vợ, chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác thì vợ, chồng vẫn có quyền thừa kế nếu thỏa mãn điều kiện theo quy định tại Điều 655 Bộ luật Dân sự 2015. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
1.5. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là quan hệ xã hội đặc biệt hình thành giữa những chủ thể có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng gần gũi, gắn bó và thân thiết trong gia đình qua quá trình sống cùng một mái nhà. Theo đó, quan hệ pháp luật này phát sinh dựa trên 4 căn cứ pháp lý bao gồm: sự kiện sinh đẻ; sự kiện nuôi dưỡng; xác định cha mẹ cho con và xác định con cho cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, tài sản nhất định và cũng có thể bị hạn chế đối với con chưa thành niên trong một số trường hợp nhất định.
1.5.1. Nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con về nhân thân, tài sản
Trước hết là quyền và nghĩa vụ của con đối với cha mẹ được quy định cụ thể tại Điều 70 Luật HNGĐ 2014, bao gồm:
Con có nghĩa vụ yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình; tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.
Bên cạnh đó, con cũng có quyền được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Ngoài ra, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Không những vậy, con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình; được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN NGÀNH LUẬT
1.5.2. Những căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
Mặc dù cha mẹ được ghi nhận quyền đối với con, tuy nhiên vẫn bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định. Theo đó cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên được quy định tại Điều 85 Luật HNGĐ khi: (i) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; (ii) Phá tán tài sản của con; (iii) Có lối sống đồi trụy; (iv) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Chủ thể có quyền yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ với con là những người thân thích hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền. Khi hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con sẽ không làm chấm dứt quan hệ cha, mẹ và con. Ngoài ra sự hạn chế này chỉ mang tính chất tạm thời và cha, mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
1.6. Cấp dưỡng
Căn cứ theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, cấp dưỡng được hiểu là “việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của pháp luật”. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Việc cấp dưỡng được áp dụng đối với các trường hợp: (i) giữa cha mẹ đối với con; (ii) giữa con đối với cha mẹ; (iii) giữa vợ chồng; (iv) giữa các anh, chị, em; (v) giữa ông bà, cháu và các thành viên khác. Trong đó hai trường hợp đầu tiên là thiết yếu và thường phát sinh trên thực tiễn.
Mức cấp dưỡng được xác định dựa trên ba yếu tố là: sự thoả thuận của các bên (bên cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng); khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận. Ngoài ra cấp dưỡng có thể thay đổi, tạm ngừng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình cảnh khó khăn về kinh tế, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Để đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ có những biện pháp thực hiện nhất định, tuỳ từng trường hợp mà đó có thể là sự tự nguyện từ phía các bên hoặc theo sự tác động của cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng có hành vi trốn tránh nghĩa vụ có thể xử lý hình sự theo quy định tại Điều 152 Bộ luật Hình sự 2015.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây tương ứng với trường hợp được cấp dưỡng cụ thể: (i) vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đã kết hôn; (ii) Con đã thành niên và có khả năng lao động; (iii) Con được nhận làm con nuôi; (iv) Người cấp dưỡng trực tiếp nuôi dưỡng; (v) Một trong hai bên chết.
1.7. Chấm dứt hôn nhân
Chấm dứt hôn nhân được hiểu là việc quan hệ hôn nhân đó không còn tồn tại trong tương lai, tức quan hệ vợ chồng giữa hai người từng là vợ chồng hợp pháp bị chấm dứt. Hôn nhân bị chấm dứt trong các trường hợp:
(i) Chấm dứt hôn nhân với người đã chết (Tòa án tuyên bố chết hoặc chết tự nhiên)
Theo đó, với chết tự nhiên, quan hệ hôn nhân đương nhiên chấm dứt mà không phải tiến hành thủ tục chấm dứt hôn nhân. Trong khi đó, chết pháp lý tức Tòa án tuyên bố chết phải thông qua thủ tục yêu cầu Tòa án công bố theo quy định của pháp luật. Đối với hai trường hợp này người vợ/chồng còn sống được giữ lại quyền nhân thân, quốc tịch, nơi cư trú; đồng thời tài sản của người đã chết sẽ được giải quyết theo pháp luật thừa kế. Thời điểm được xem là chấm dứt hôn nhân là ngày ghi nhận trong giấy chứng tử hoặc ngày quyết định tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
(ii) Chấm dứt hôn nhân phải có phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật
Ly hôn được hiểu là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Theo quy định của pháp luật, ly hôn có thể được áp dụng theo một trong ba trường hợp: ly hôn theo yêu cầu của một bên (trừ một số trường hợp hạn chế ly hôn theo quy định tại Điều 51 Luật HNGĐ 2014); hai bên thuận tình ly hôn; ly hôn với người bị Tòa án tuyên bố mất tích. Viêc ly hôn được thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
1.8. Quan hệ pháp luật và hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhũng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Việc kết hôn hay ly hôn có yếu tố nước ngoài phải đảm bảo tuân thủ một số nhất định của pháp luật hiện hành nhằm vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người, đồng thời không làm ảnh hưởng tới pháp luật và mối quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời bảo vệ nền tư pháp của Việt Nam.
2. Áp dụng thực tiễn đối với môn học
Liên quan tới quan hệ hôn nhân và gia đình có nhiều ví dụ đã được giảng viên đưa ra trong quá trình giảng dạy nhằm liên hệ kiến thức lý luận với thực tiễn áp dụng. Trong đó có một ví dụ liên quan tới tranh chấp ly hôn thực tiễn đã được Tòa án nhân dân xét xử và đã được ghi nhận thành Án lệ số 03/2016/AL tại nước ta. Cụ thể như sau:
“Chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký tại UBND xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Sau chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2008 đến nay. Ngày 18-4-2009, chị Hồng khởi kiện xin ly hôn anh Nam, anh Nam cũng đồng ý. Trong nhiều vấn đề tranh chấp anh Nam và chị Hồng có chưa thống nhất được với nhau liên quan đến vấn đề chia tài sản là quyền sử dụng đất mà anh chị đang sinh sống hiện nay. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Theo nội dung án lệ, năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm. Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”
XEM THÊM ==> Trọn bộ bài thu hoạch ngành Luật
3. Kết quả môn học
3.1. Những vấn đề sinh viên nắm được
Sau khi hoàn thành môn học Luật Hôn nhân và gia đình, bản thân em nói riêng và các bạn sinh viên theo học nói chung đã hiểu được một các khái quát và tổng quan nhất những kiến thức cơ bản về lý luận, các quy định pháp luật và thực tiễn liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình. Đây là những kiến thức thực sự thiết thực và liên quan trực tiếp tới đời sống hằng ngày của con người trong xã hội, cụ thể nội dung bài giảng môn học được chia theo kết cấu và thứ tự nội dung chính bao gồm:
(i) Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật HNGĐ;
(ii) Quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình;
(iii) Kết hôn;
(iv) Quan hệ vợ, chồng; quan hệ cha, mẹ, con; nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình;
(v) Chấm dứt hôn nhân;
(vi) Quan hệ pháp luật và hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Thứ tự phân chia nội dung chính nêu trên rất phù hợp với việc phân tích quy định của pháp luật hiện hành theo trình tự tương tự, cụ thể là đi từ cái chung cho đến cái riêng, từ cái tổng quan đến cái chi tiết giúp làm học viên hiểu rõ hơn và nội dung kiến thức được truyền đạt. Thông qua những nội dung được giới thiệu và đào tạo trong môn học, , đây sẽ trở thành nguồn kiến thức nền tảng giúp em tự tin hơn trong quan hệ pháp luật có liên quan và áp dụng vào thực tiễn.
3.2. Ý kiến về cách giới thiệu môn học của giảng viên
Được tham gia học dưới sự giảng dạy của các thầy cô trong môn Luật HNGĐ, em đã biết thêm nhiều kiến thức bổ ích, quan trọng với một tinh thần học tập nhiệt huyết và nhiều năng lượng. Điều này xuất phát phần lớn từ cách thức giảng dạy, truyền đạt kiến thức, giới thiệu môn học từ thầy cô. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Trước hết, giảng viên luôn tham gia lớp học và giảng dạy với sự tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ nhằm truyền đạt kiến thức cho sinh viên. Tốc độ giảng của giảng viên phù hợp, dễ hiểu, và đi vào trực tiếp vấn đề giúp chúng em có thể dễ dàng tiếp cận hơn.
Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy, giảng viên thường xuyên đưa ra nhiều ví dụ, dẫn chứng thực tiễn đối với từng vấn đề cụ thể. Ví dụ như đối với trường hợp tranh chấp ly hôn (ví dụ về án lệ, về các tranh chấp khi ly hôn,…) , quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài (ví dụ về các thực tiễn tình trạng “cô dâu Việt Nam”,…). Thông qua việc đưa ra những ví dụ thầy cô đồng thời có những đánh giá về mặt chuyên môn và xã hội để giúp chúng em hiểu sâu hơn nội dung nghiên cứu.
3.3. Kiến nghị/giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học viên
Những kiến thức giảng viên truyền đạt qua bộ môn Luật HNGĐ thực sự rất thú vị và có giá trị áp dụng thực tiễn cao. Cùng với sự hiệu quả hiện tại đã đạt được, bản thân em có một số đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập của học viên như sau:
Thứ nhất, đây là môn học có tính áp dụng thực tiễn cao bởi lẽ nó xuất hiện thường trực trong cuộc sống thường nhật, nhất là liên quan tới những tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Để tăng sự hiểu biết về thực tiễn đồng thời sự hứng thú đối với môn học, thầy cô có thể xem xét tạo điều kiện liên hệ với các tòa án để sinh viên có thể tham quan, trao đổi trực tiếp hoặc thậm chí là vào tham dự phiên tòa với vai trò là người nghe. Như vậy, không chỉ trên sách vở và giảng đường, sinh viên chúng em có thể vận dụng và nắm được các kiến thực trên thực tiễn. Để đánh giá kết quả của hoạt động thực tiễn này, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên hoàn thiện và nộp lại một bản báo cáo về kết quả tham gia hoạt động.
Thứ hai, bên cạnh pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài cũng có nhiều quy định tiến bộ và đặc biệt có liên quan, ảnh hưởng tới việc áp dụng pháp luật Việt Nam nói chung về trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng. Vì vậy, chúng em mong muốn trong hoạt động giảng dạy, thầy cô có thể bổ sung thêm những ví dụ liên quan tới hệ thống pháp luật nước ngoài để có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật trong nước. Tuy nhiên, điều này cũng cần sự chủ động từ phía sinh viên, do đó, giảng viên có thể xem xét yêu cầu sinh viên chủ động nghiên cứu và cùng tham gia bàn luận trên lớp thông qua bài tập nhóm, bài tập về nhà.
Phần kết luận Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình
Trên đây là toàn bộ nội dung bài thu hoạch của em sau khi học môn Luật Hôn nhân và gia đình. Có thể nói, môn học này đã cung cấp cho em nhiều kiến thức cả về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn về loại quan hệ pháp luật phổ biến – quan hệ hôn nhân và quan hệ gia định. Thông qua những kiến thức và bài học được cô truyền đạt, em đã có sự hiểu biết nhất định về quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như những người xung quan trong quan hệ về hôn nhân và gia đình. Đây sẽ là cơ sở, nền tảng giúp em không chỉ vận dụng vào thực tiễn, bảo vệ được bản thân và người xung quanh, có ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật mà còn truyền động lực, cảm hứng và là nguồn tri thức giá trị cho hoạt động hành nghề của em sau này. ( Tiểu luận: bài thu hoạch môn Luật hôn nhân và gia đình, 9đ )
Hiện tại, AD cung cấp nguồn tài liệu miễn phí và nhận viết các bài Tiểu luận, báo cáo, khóa luận,… đa dạng phong phú các đề tài ngành nghề. Nếu thời gian gấp rút không làm bài được hay muốn thuê viết hãy chủ động liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan nhé!