Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập

Rate this post

Tải miễn phí bài tiểu luận môn Chính Trị Học đề tài : Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập , và còn nhiều bài tiểu luận với đề tài liên quan mô hình tam quyền phân lập các bạn tham khảo tìm kiếm trên website nhé.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Chính Trị Học, nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562


PHẦN 1: Phần lý luận – Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập 

1. Khái niệm quyền lực và phân loại quyền lực

  • Khái niệm quyền lực

 Quyền lực là năng lực của một chủ thể buộc  chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình,  bất kể sự kháng cự.

Một quan hệ quyền lực sẽ bao gồm:

– Nguồn gốc hoặc cơ sở của quyền lực

– Các phương tiện hoặc công cụ được sử dụng  để thực hiện quyền lực

– Tổng số (lượng) hoặc mức độ quyền lực

– Lĩnh vực, hoặc phạm vi quyền lực

  • Phân loại quyền lực

Thứ nhất, dựa trên hình thức của quyền lực của French và Raven (1959) ta có:

  1. Quyền lực cưỡng bức: buộc người khác làm điều họ không muốn. Quyền lực này dựa trên sự sợ hãi;
  2. Quyền lực ban thưởng: Quyền ban thưởng cho người khác vì hoàn thành một công việc được giao
  3. Quyền lực hợp pháp: Quyền lực có được nhờ vị trí mà người đó nắm giữ. Người dưới quyền tuân thủ vị  trí, chứ không phải con người.
  4. Quyền lực tham chiếu: Quyền lực có được nhờ mối quan hệ với người có quyền lực
  5. Quyền lực chuyên gia: Quyền lực có được nhờ thuần thục những kỹ năng nhất định và đáp ứng  được yêu cầu của một tổ chức nào đó

Thứ hai, dựa vào hình thái quyền lực sẽ tồn tài Quyền lực cứng và  quyền lực mềm (Joseph S. Nye) cụ thể:

  1. Quyền lực cứng (hard power): sức mạnh; vị trí
  2. Quyền lực mềm (soft power): là quyền lực có được nhờ những phẩm chất, sự hấp dẫn cá nhân
  3. Quyền lực thông minh (smart power) = kết hợp nhuần nhuyễn Quyền lực cứng + Quyền lực mềm  phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị

  • Khái niệm

Quyền lực chính trị là một dạng quyền lực trong xã hội có giai cấp. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm rằng quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của giai cấp để đàn áp một giai cấp khác. Như vậy, quyền lực chính trị luôn gắn liền với quyền lực nhà nước, phản ánh mức độ giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước của những tập đoàn người trong xã hội để bảo vệ lợi ích của mình, chi phối các tập đoàn khác. Nói cách khác, quyền lực chính trị phản ánh mức độ thực hiện lợi ích của một giai cấp, một nhóm người nhất định trong mối quan hệ với các giai cấp hay nhóm người khác thông qua mức độ chi phối quyền lực nhà nước.

  • Đặc trưng cơ bản
  • Quyền lực luôn cần có tính chính đáng
  • Quyền lực chính trị là một tất yếu khách quan trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử
  • Quyền lực chính trị mang tính giai cấp
  • Quyền lực chính trị mang tính xã hội
  • Quyền lực chính trị cần được tập trung đủ mức

XEM THÊM 999+ BÀI TIỂU LUẬN MÔN CHÍNH TRỊ HỌC

3. Phân biệt quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực nhà nước.  Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập 

Quyền lực chính trị của Đảng: Ở nước ta, sự ra đời của tổ chức Nhà nước là thành quả cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi cách mạng thành công, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tổ chức ra nhà nước để thay mặt nhân dân quản lý đất nước. Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chỉ thị, nghị quyết, đề ra chủ trương, đường lối định hướng xây dựng tổ chức bộ máy, luật pháp, chính sách của Nhà nước; bằng việc giới thiệu đảng viên của mình để nhân dân bầu vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan nhà nước để thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện để chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, đem lại những kết quả và bằng việc kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước về việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ, bảo vệ Nhà nước, tích cực tham gia thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước và giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thực hiện luật pháp, chính sách.

Vai trò, chức năng của Đảng: lãnh đạo chính trị, định hướng chính trị cho luật pháp, chính sách, cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Khi Đảng là đảng cầm quyền thì việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước là thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước, Đảng lãnh đạo hoạt động mọi mặt của đất nước, của xã hội. Nhà nước trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có uy tín với nhân dân, đất nước ổn định, phát triển thì Đảng có uy tín với nhân dân, duy trì, củng cố được vai trò, vị trí cầm quyền của mình. (Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập )

Quyền lực nhà nước: Trong nền chính trị hiện đại, Nhà nước là do nhân dân thành lập (thông qua bầu cử) để thay mặt nhân dân quản lý đất nước. Đó là Nhà nước pháp quyền, quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là tối thượng; mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân đều phải tuân thủ, chấp hành pháp luật, “sống và làm việc theo pháp luật”. Việc ban hành các văn bản pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Đảng cầm quyền cũng phải tuân thủ pháp luật, các tổ chức Đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các chủ trương, đường lối, quan điểm trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng phải thông qua đảng viên, tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước chuyển hóa thành luật pháp, chính sách của Nhà nước mới được toàn dân, cả xã hội thực hiện. Trong bối cảnh một Đảng có uy tín lớn, trở thành Đảng cầm quyền, đã cầm quyền nhiều năm, cần đề phòng việc xuất hiện hiện tượng không phân biệt rõ ranh giới, sự khác biệt giữa vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước; hiện tượng tổ chức Đảng “làm thay” cơ quan nhà nước, quyết định trước những công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước, biến việc quyết định của cơ quan nhà nước trở thành “hợp thức hóa” quyết định của Đảng; còn Đảng thì bị “Nhà nước hóa”, làm nảy sinh mầm mống làm Đảng suy thoái; Nhà nước không còn thật sự là Nhà nước pháp quyền, dẫn đến những hậu quả tiêu cực với cả Đảng và Nhà nước.

 Kết luận: Như vậy, Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy quyền. Cương lĩnh của Đảng xác định xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, do nhân dân làm chủ”, “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”[1]. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý là để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người giám sát, đánh giá hoạt động của Đảng, Nhà nước (các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, đảng viên và cán bộ, công chức nhà nước), quyết định về tổ chức, hoạt động của Nhà nước, quyết định vai trò cầm quyền (hay không cầm quyền) của Đảng.

Phần 2: Phần thực tiễn “ Học thuyết phân chia quyền lực và mô hình tam quyền phân lập”

1. Học thuyết phân chia quyền lực – Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập 

Quyền lực chính trị được phân chia dựa trên các nguyên tắc cơ bản:

– Quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện một cách độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một quyền để đảm bảo không một cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước, cũng như không một cơ quan nào có thể lấn sân sang hoạt động của cơ quan khác.

Thực chất của sự phân chia quyền lực là sự nhận định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo sự chuyên môn hóa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Như Ph. Ăng-ghen viết: “Sự phân quyền… trên thực tế chỉ là một sự phân công lao động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục đích đơn giản hóa và kiểm soát”.

– Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có sự kiềm chế, đối trọng với nhau theo phương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm soát, giám sát từ phía cơ quan khác nhau nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, qua đó đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng như có thể tránh được những mối nguy hại khác. Sự kiểm soát, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp với nhau nhằm tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước.

– Trong thực tiễn, sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ giới hạn ở việc phân quyền theo chiều ngang (lập pháp, hành pháp, tư pháp) mà còn diễn ra theo chiều dọc, giữa nhà nước liên bang với nhà nước thành viên, giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.

2. Mô hình Tam quyền phân lập (Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập )

  • Khái niệm:

Thực tế cho thấy, phân quyền là một tư tưởng phức tạp, đa chiều nên được hiểu rất khác nhau. Dù đều dựa trên các nguyên tắc phân chia quyền lực chính trị đã được đề cập, các nhà nước phân chia quyền lực theo những cách khác nhau. Một số nhà lập pháp Mỹ La-tinh chia quyền lực nhà nước thành bốn loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử) và quyền bầu cử (thuộc về tổ chức bầu cử  – hội đồng bầu cử). Hiến pháp Ni-ca-ra-goa năm 1986 do Đảng Xã hội – Thiên chúa giáo đối lập đưa ra tới năm loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử), quyền bầu cử và quyền kiểm tra. Hiến pháp năm 1976 của An-giê-ri quy định sáu loại quyền, gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền chính trị, quyền kiểm tra và quyền tổ chức…. Tuy nhiên, thuyết tam quyền phân lập được coi là hình thức phân chia quyền lực chính trị phổ biến nhất, được biết đến rộng rãi nhất và được áp dụng ở cả Mỹ, Anh và các nước châu Âu như Pháp hay Hà Lan với mỗi kiểu nhà nước khác nhau.

Hiểu một cách khái quát, mô hình tam quyền phân lập là sự phân chia quyền lực chính trị thành ba nhánh: Lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm mục đích đảm bảo rằng bộ máy nhà nước hoạt động thật sự hiệu quả và quyền lợi của công dân được bảo đảm. Mỗi nhánh sở hữu quyền lực và trách nhiệm riêng.

  • Quá trình hình thành học thuyết Tam quyền phân lập:

Lý thuyết về sự phân chia quyền lực đã được đề cập bởi triết gia cổ đại như Aristoteles hay Polybios nhưng nó đã không được đưa vào thực hiện cho đến thời kỳ La Mã dưới hình thức nhà nước trong các cộng hòa La Mã.

Tuy nhiên đến thế kỷ 17-18, các nhà tư tưởng người Anh John Locke và người Pháp Montesquieu mới đề cập đến mô hình tam quyền phân lập trong các tác phẩm của mình. Tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế, Montesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân.

Cụ thể,  lý luận phân quyền của J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều xuất phát từ khảo sát thực tế mô hình chính thể quân chủ lập hiến của nước Anh thế kỷ XVII – XVIII. Lý luận phân chia quyền lực của J. Locke được tiến hành trong thời kỳ cách mạng của giai cấp tư sản Anh đạt được thắng lợi, tạo ra sự thỏa hiệp giai cấp và phân quyền giai cấp. Từ đời sống chính trị nước Anh, ông quan sát đến cách thức củng cố quyền lực nhà nước của giai cấp tư sản, phòng trừ việc phục hồi của thế lực phong kiến. Ông phản đối chế độ quân chủ quyền lực vô hạn, vì cho rằng nếu nhà vua có toàn quyền thì quyền lợi của mọi người sẽ bị nhà vua xâm hại, không thể có được sự xét xử công bằng. Tuy nhiên, ông không chủ trương xóa bỏ triệt để chế độ quân chủ vì cho rằng người dân Anh không dễ gì từ bỏ chế độ cũ, chỉ trong trường hợp nghiêm trọng khi nhà vua lạm dụng quyền lực thì mới đặt vấn đề phế truất nhà vua.

Trong khi chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh đã được xác lập và chế độ dân chủ nghị viện đã bước đầu định hình thì nền chính trị nước Pháp vẫn có xu hướng phản động, cụ thể là khi Luis XIV (1638-1715) lên nắm quyền vẫn cho rằng “nhà nước chính là ta”. Để đấu tranh chống xu hướng độc đoán, chuyên chế này, Ch.S. Montesquieu quyết tâm học tập chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh, đả kích chế độ chuyên chính của Pháp, đưa ra nhiều sáng kiến cho việc cải cách chế độ chính trị của Pháp. Ông cũng phản đối chuyên chế quân chủ, cho rằng trong các nhà nước chuyên chế người ta chẳng khác gì một sinh vật phục tùng một sinh vật có ý chí khác, sinh mệnh con người ở đâu cũng giống nhau. Ông cũng không chủ trương xóa bỏ hoàn toàn chế độ quân chủ, cho rằng nguyên tắc của chính thể quân chủ là vinh dự, tự trọng mà vinh dự, tự trọng là động lực thúc đẩy các “bộ phận của cơ thể chính trị”. Có nghĩa là cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều nhận định chế độ quân chủ lập hiến của Anh vừa bảo đảm được chế độ quân chủ vừa hạn chế được quyền lực của vua. Do vậy đó là một thể chế chính trị lý tưởng. (Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập )

  • Mô hình tam quyền phân lập tại Mỹ

Có thể thấy cơ chế, thành phần của từng nhánh thuộc mô hình tam quyền phân lập tại Mỹ trong chính thể cộng hòa tổng thống, nơi mà tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực tuyệt đối cứng rắn, tách biệt triệt để. Tổng kết lại:

–           Lập pháp biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân – Quốc hội.

–           Hành pháp là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập

–           Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.

Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc phân quyền vào tổ chức quyền lực nhà nước ở Mỹ bộc lộ những hạn chế, yếu kém như sau:

1- Chế độ cộng hòa tổng thống với việc áp dụng tư tưởng phân quyền tuyệt đối trên thực tế có nhiều nét tương đồng với chế độ quân chủ hạn chế, hay nói cách khác, hai chế độ đó được đem lồng vào một nền cộng hòa. Sự khác biệt ở đây chỉ đơn giản là vua được thay bằng tổng thống.

2- Theo hiến định, Quốc hội Mỹ mang tính dân chủ đại diện, nhưng trên thực tế, tính đại diện luôn được biểu hiện dưới hình thức đặc quyền. Thực chất, Quốc hội là một thiết chế của những người có đặc quyền: Nghị sĩ được bầu là những người thuộc về một tầng lớp bề trên, có trình độ học vấn và khả năng tài chính lớn, không đúng với quy định của Hiến pháp Mỹ về sự bình đẳng của mọi công dân trong bầu cử và ứng cử.

3- Sự bành trướng ghê gớm của bộ máy hành pháp cả về quy mô lẫn chất lượng. Quyền lực đang chuyển từ các lĩnh vực kinh tế và chính trị sang các cơ quan hành chính. Bộ máy hành pháp thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống chính trị – xã hội… Ngân sách nhà nước phải chi phí một khoản quá lớn để duy trì và nuôi bộ máy hành pháp khổng lồ; kéo theo chi phí đắt đỏ cho đời sống xã hội, cùng với đó là những khó khăn về nhà ở, y tế không đáp ứng kịp yêu cầu xã hội.

4- Kết quả hoạt động (độc lập và chỉ tuân theo pháp luật) của hệ thống tư pháp Mỹ vẫn là phụ thuộc vào nhân tố con người – các vị luật sư, công tố viên, thẩm phán và bồi thẩm. Và với tuyên bố “Tòa án đứng độc lập, đối trọng với các nhánh quyền lực khác được xem là thành trì bảo vệ cuối cùng trong pháo đài nhà nước nhằm chống lại mọi sự đe dọa đối với các nguyên tắc, các giá trị nền tảng của xã hội Mỹ”, có thể thấy rõ rằng, quá trình tư pháp Mỹ vẫn là biểu hiện của quá trình chính trị.

  • Có nên vận dụng mô hình tam quyền phân lập vào Việt Nam hiện nay?

Thứ nhất, hoàn cảnh áp dụng không tương thích: Như đã đề cập trong phần lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết tam quyền phân lập, có thể thấy, Lý luận phân quyền của các ông mặc dù về nội dung và hình thức có những điểm không giống nhau nhưng đều dựa trên chế độ quân chủ lập hiến của Anh và đều là biểu hiện lý luận của chính thể này. Hơn nữa, phân quyền mà cả hai ông cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp. Điều này cho thấy, tính lịch sử và điều kiện lịch sử của sự ra đời cũng như của việc vận dụng mô hình tam quyền phân lập. Ở Việt Nam hiện tại không có những điều kiện lịch sử giống như lịch sử nước Anh và Pháp thế kỷ XVII-XVIII, cũng không có nhà nước chuyên chế phong kiến cần đánh đổ. Do vậy, không nhất thiết và không cần phải vận dụng mô hình tam quyền phân lập. (Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập )

Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập
Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập

Thứ hai, truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc không phù hợp: như trên chúng ta đã rõ, phân quyền mà cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp – phân chia quyền lực giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến quý tộc đứng đầu là vua – đang “lụi tàn”, nhưng còn rất mạnh và vẫn chiếm vị trí quan trọng trong lòng người dân ở các nước này do truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc. Để dung hòa, xoa dịu mâu thuẫn và để giải quyết tương quan lực lượng giữa hai giai cấp này tốt nhất họ đã tìm thấy mô hình nhà nước chính thể quân chủ lập hiến. Mô hình này giúp cho giai cấp tư sản lợi dụng được truyền thống của giới quý tộc phong kiến trong việc khơi gợi tự hào dòng tộc, truyền thống quốc gia. Trên cơ sở đó giúp giai cấp tư sản tập hợp được sự nhất trí của các giai tầng vì một dân tộc quốc gia thống nhất. Mặt khác, về hình thức thì giai cấp phong kiến quý tộc vẫn còn danh dự, vẫn có quyền lực mặc dầu chỉ là quyền lực hình thức. Đối với Việt Nam, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,v.v.. mặc dù khác nhau về tính chất nghề nghiệp, công việc, đặc điểm lao động, trình độ học vấn, v.v.. nhưng nếu xét về địa vị trong nền sản xuất xã hội, xét về địa vị chính trị trong chế độ chính trị – xã hội thì các giai cấp này thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, kể cả đối với quyền lực nhà nước. Hơn nữa, trong nội bộ mỗi giai cấp này cũng có sự thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam cũng như trong nội bộ từng giai cấp này là sự thống nhất về lợi ích. Hơn nữa, lợi ích của các giai cấp này cũng thống nhất với lợi ích của Nhà nước Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tương quan giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức cũng như tương quan trong nội bộ từng giai cấp như vậy không đòi hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước!.

LIST 99+ LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ HỌC

Thứ ba, quan trọng nhất, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân.

Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

  1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
  2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền. Điều 94, Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định:

  1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
  2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
  3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định: (Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập )

“1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

  1. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
  2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Như vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ quan này đều thực hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mô hình tam quyền phân lập bởi sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được bảo đảm và thực hiện tốt.

XEM THÊM==> Dịch vụ viết thuê tiểu luận


Trên đây là tiểu luận môn Chính Trị Học đề tài Tiểu luận Quyền lực chính trị và mô hình tam quyền phân lập , dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương : còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận, nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562 

DOWNLOAD FILE

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo