Tải Bài Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo, 9 Điểm

Rate this post

Sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn bài Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo là một trong những đề tài tiểu luận hoàn toàn hay chẳng những thế lại còn đạt điểm cao nữa, đáng để xem và tham khảo. Nguồn tài liệu mình đã tiến hành triển khai nguồn tài liệu như là sự ra đời của phật giáo,quá trình hình thành đại thừa phật giáo… Hy vọng đề tài tiểu luận mình sắp chia sẻ đến cho các bạn thêm nhiều thông tin hữu ích để có thể tiến hành làm bài tiểu luận trọn vẹn nhất có thể. 

Ngoài ra, hiện nay bên mình có nhận viết thuê tiểu luận với đa dạng đề tài điểm cao và các ngành nghề đạt điểm cao, nếu như các bạn đang cần viết thuê một bài tiểu luận thì ngay bây giờ đây hãy tìm đến dịch vụ làm tiểu luận thuê chất lượng của chúng tôi qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá và hỗ trợ nhanh nhất có thể nhé.

1.Sự Ra Đời Của Phật Giáo

Theo truyền thuyết, vào thế kỷ 6 trước Công nguyên, Hoàng Hậu nước Ca – ti – na biên giới phía nam Ne – pan (Nepal) ngày nay, trước khi sinh con đã nằm mơ thấy một con voi trắng dùng vòi dâng lên cho bà một bông sen trắng, đặt hẳn vào lòng bà. Sau đó bà đã sinh được một hoàng tử ở Lum – bi – ni. Hoàng tử vừa mới sinh ra đã đi được 7 bước, mỗi bước đều nở hoa sen. Vị hoàng tử kỳ lạ ấy là Cau-ta-ma-xi-da-ta (Gautama Seddhartha: Tất đạt đà), sau này trở thành người sáng tạo ra đạo Phật và được gọi là vị thánh của dân tộc Swka (Thích ca mâu ni)

XEM THÊM : Viết Thuê Tiểu Luận

Xi-da-ta thông minh hiếu học, tri thức thâm uyên, lại rất giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Song hoàng tử lại là người đa sầu đa cảm và rất từ thiện. Một hôm, Hoàng tử đi xe ngựa ra ngoài thành chơi trông thấy một ông già gù, quần áo lam lũ, chống gậy đi lại một cách khó khăn lúc nào cũng chỉ chực ngã xuống. Một lát sau, Hoàng tử lại gặp một người gầy như que củi đang ngồi rên trên một tảng đá, tiếng rên đau đớn khiến người nghe tan nát cõi lòng. Tiếp đó, Hoàng tử lại gặp một xác người nằm bên vệ đường… Gặp những cảnh thương tâm đó, Hoàng tử Xi-đa-ta ngẩn ngơ cả người, lấy hai tay ôm mặt và bảo người xà ích: “Về ngay thôi, nhanh lên”. Người xà ích đánh xe quay về, buồn rầu thanh: “Đó là con đường của một đời người”.

Câu nói ấy của người xà ích làm cho Hoàng tử trầm tư. Sinh, lão, bệnh, tử đó là con đường mà một đời người phải trải qua đó ư! Không kể là người sang hay kẻ hèn, chẳng ai thoát khỏi con đường này ư? Làm cách nào để con người được “giải thoát”, được cứu ra khỏi con đường đau khổ đó? Hoàng tử đã đọc biết bao nhiêu kinh Vê-đa, mời biết bao thầy thuộc đạo Bà-la-môn giảng cho song đều không tìm thấy câu trả lời. Từ đó, Hoàng tử Xi-đa-ta nảy ra ý định xuất gia tu hành, hy vọng tự tìm ra lời giải.

Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo vua Tịnh Phạn nghe nói Hoàng tử muốn đi tu giật mình vội cưới cho Hoàng tử một công chúa xinh đẹp của Vương quốc láng giềng, hòng đánh tan ý định tu hành của Hoàng tử. Năm Xi-đa-ta 29 tuổi, Công chúa sinh được một người con trai là Rô-hao-đô, Xi-đa-ta cho rằng vương vị đã có người nối dõi. Và đúng lúc vua Tịnh Phạn vui mừng mở tiệc chúc mừng đứa cháu nội ra đời, Xi-đa-ta đã lặng lẽ từ giã vợ con ra khỏi hoàng cung, trở thành một hành giả trong tay không một đồng xu. Sáu năm trời, ông đi khắp mọi nơi tìm đến các thầy giỏi, các bậc thánh thần để cùng họ đàm đạo, tìm hiểu về cội nguồn của lẽ sống nhưng vẫn không thu được gì hơn. Ông cảm thấy thất vọng, lang bạt đến U-ru-vi-rô, nơi đây có rừng cây rậm rạp, sông nước sạch trong, có thể là nơi tu hành được. Sau bẩy lần bẩy 49 ngày, cuối cùng trong một đêm sao thưa trăng sáng bỗng thấy “đại triệt đại ngộ”, thấu hiểu mọi lẽ của cuộc sống, ngộ đạo thành Phật. Phật có nghĩa là giác ngộ, lĩnh hội được chân lý. Sau này đệ tử của ông tôn ông là Phật đà But-đa (Buddha) tức là “người ngộ đạo”, còn gọi ông là Thích ca mẫu ni có nghĩa là “thánh nhân của dân tộc Sư ca”. Từ đó ông bắt đầu một cuộc đời truyền đạo, và người ta gọi tôn giáo của ông là Phật giáo.

Phật đà đi truyền đạo ở mọi nơi, dấu tích in khắp hai bờ sông Hằng. Những năm cuối đời ông chỉ đi lại trong vùng giữa thành Vương xá và Xá vệ. Ông đưa ra mục tiêu cơ bản cho mọi người, tức là đạt đến độ hạnh phúc nhất cho người ta là thoát khỏi mọi dục vọng, khi đó con người đạt đến sự viên mãn về tinh thần và linh hồn. Học thuyết của ông đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi tầng lớp xã hội, bản thân ông được toàn ấn Độ kính trọng.

Vào thế kỷ thứ 3 TCN, dưới triều đại Khổng Tước của Ấn Độ, vua A-uy lấy đạo Phật làm quốc giáo. Từ đó đạo Phật bắt đầu được truyền bá rộng khắp sang các nước Đông Nam Á, Trung Á và Trung Quốc. Ngày nay Phật giáo đã trở thành 1 trong 3 tôn giáo lớn trên Thế Giới.

XEM THÊM : Tiểu Luận Tư Tưởng Phật Giáo Ảnh Hưởng Đến Đời Sống

2. Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo

 Mahayana đi vào lịch sử như một liên hiệp lỏng lẻo của nhiều nhóm, mỗi nhóm liên kết với một hay nhiều kinh điển mới. Các người Đại thừa vẫn là một thiểu số trong giới Phật tử Ấn Độ trong một thời gian dài. Đến thế kỷ thứ bảy Công Nguyên, nhà hành hương Huyền Trang ước tính là phân nửa trong số 200,000 vị tu sĩ tại Ấn Độ theo phong trào Đại thừa.

Đại thừa (mahāyāna; chữ Hán: 大乘), phiên âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (摩訶衍那) hay Ma-ha-diễn (摩訶衍), tức là “cỗ xe lớn” hay còn gọi là Đại Thặng tức là “bánh xe lớn” là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật, phổ biến tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc và Triều Tiên. Trong một số tài liệu hiện đại, các danh xưng Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Phát triển, cũng được xem là tương đương và có thể được dùng để thay thế thuật ngữ Phật giáo Đại thừa.

Theo các học giả nghiên cứu, Phật giáo Đại thừa phát triển ở Ấn Độ vào khoảng từ thế kỷ 1 trước Công nguyên trở đi. Đại thừa chấp nhận các kinh điển và giáo lý chính của Phật giáo sơ kỳ, nhưng được bổ sung nhiều học thuyết và kinh điển mới. Ban đầu, Đại thừa chỉ là một phong trào cải cách Phật giáo nhỏ ở Ấn Độ, nhưng trường phái này dần phát triển thành trường phái có ảnh hưởng trong Phật giáo Ấn Độ. Các trung tâm học thuật lớn liên quan đến Đại thừa như Nalanda và Vikramashila phát triển mạnh trong khoảng từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII.[2] Theo dòng lịch sử, Phật giáo Đại thừa lan rộng khắp Nam Á, Trung Á, Đông Á và Đông Nam Á, trở thành truyền thống Phật giáo lớn nhất có ngày nay, với 53% Phật tử thuộc Đại thừa Đông Á và 6% theo Kim cương thừa, so với 36% của Phật giáo Thượng toạ bộ (khảo sát năm 2010), có ảnh hưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Nepal, Malaysia và Bhutan.

Phật giáo Đại thừa đề cao con đường của Bồ Tát phấn đấu để đạt được giác ngộ hoàn toàn (samyaksaṃbuddha) vì lợi ích của tất cả chúng sinh, và do đó còn được gọi là “Bồ tát thừa”. Nhìn chung, Phật giáo Đại thừa xem mục tiêu trở thành Phật thông qua con đường bồ tát là có sẵn cho tất cả mọi người và xem trạng thái của quả vị A-la-hán là chưa hoàn thiện. Các hình tượng giác ngộ trong Phật giáo Đại thừa rất đa dạng và phong phú, nhiều vị Phật và Bồ tát không hiện diện trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy (như hình tượng A-di-đà. Triết học Đại thừa cũng thúc đẩy phát triển các tông phái với những học thuyết độc đáo, chẳng hạn như Trung quán tông với Thuyết tính Không (śūnyatā), Duy thức tông và thuyết Phật tính.

Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo truyền thống Kim Cương thừa được các nhà nghiên cứu xem là một nhánh của Đại thừa, chú trọng sử dụng chân ngôn (sa. mantra), và những nghi lễ bao gồm những phuong pháp dùng các ấn thủ trong tu tập, một phương pháp mà các tu sĩ thuộc truyền thống này cho rằng có hiệu quả mạnh mẽ hơn và nhanh hơn trong việc đạt được Phật quả

Các quan niệm mới về giá trị của kinh điển đã khuyến khích phong trào Đại thừa có thêm nhiều tự do phóng khoáng, nhiều sự “mặc khải”, để tạo ra hằng loạt các kinh điển mới ở Ấn Độ cho đến khoảng năm 650 CN. Các bộ kinh nầy thường được trước tác bởi các vị tu sĩ ẩn danh, thông thường có một nhóm tác giả viết ra một văn bản mới với nhiều chi tiết, càng ngày càng phát triển rộng thành các tác phẩm lớn, có khi lên đến vài trăm trang giấy. Trong khi đó, các kinh điển nguyên thủy thường ngắn gọn hơn, mỗi bài kinh chỉ có vài ba trang. Thật ra, trong một vài bài kinh nguyên thủy, Đức Phật được nhắc đến như là một đại nhân cao quý, xuất chúng, chung quanh là hàng trăm vị chư thiên và đại đệ tử. Các kinh điển Mahayana đã mô phỏng theo lối diễn tả nầy. Trong các kinh đại thừa, Đức Phật thường dùng các ẩn dụ, lời nói bóng bẩy, đa nghĩa, và giảng cho nhiều vị Phật khác, nhiều vị Bồ Tát trong nhiều tầng trời của vũ trụ. Những vị cứu rỗi nầy, chư Phật và chư Bồ Tát với nhiều danh hiệu và nguồn gốc mới lạ, trở thành đối tượng cho việc tôn thờ, sùng bái và cầu nguyện, và từ đó gia tăng tính hấp dẫn, thu hút quần chúng, giúp thành công cho việc truyền bá phong trào Đại thừa.

XEM THÊM : Tiểu Luận Hiện Tượng Tôn Giáo Và Triết Học Dân Tộc Phật Giáo

Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo
Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo

Đầu tiên, phong trào mới nầy được gọi là Bồ Tát Thừa (Bodhisatva-yana). Tên gọi đó để phân biệt với Thanh Văn Thừa (Sravaka-yana) của những người hành trì các lời dạy nguyên thủy của Đức Phật và nhắm đến quả vị A-la-hán (Arahat), không phải quả vị Chánh Đẳng Giác (Samma-sambuddho). Tên gọi đó cũng để phân biệt với Độc Giác Thừa (Pratyeka-Buddha-yana), dùng để chỉ các vị tu sĩ sống đơn độc, trong các thời xa xưa, tự giác ngộ nhưng không truyền dạy cho người khác. Dần dần, khi bị nhiều chỉ trích và phê bình của những người không tán đồng các tư tưởng mới, phong trào nầy phản ứng lại bằng cách gia tăng ca ngợi tầm mức quan trọng của hạnh Bồ Tát và đưa ra một danh xưng mới: Mahayana (Đại thừa). Các “thừa” khác giờ đây bị khinh chê là thấp kém, và bị gán cho một tên gọi khác là Hinayana (Tiểu thừa). Lý do biện minh cho cái “lớn” của Đại thừa ở trong 3 lãnh vực: ý nguyện từ bi muốn cứu vớt muôn loài, tuệ giác thâm sâu mà họ cổ võ, và mục tiêu nhắm đến quả vị tối thượng của Phật.

Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo vào khoảng năm 200 CN, một bộ kinh mới có tên “Hoa sen của Chân Pháp” (Diệu Pháp Liên Hoa, Saddharmapundarika) được viết ra với một cái nhìn mới: mặc dù vẫn còn chống báng “Tiểu thừa”, bộ kinh cho rằng Tiểu thừa được bao gồm trong và hoàn mãn bởi Đại thừa. Phẩm 2 của bộ kinh nầy, trong việc dung nạp Tiểu thừa, đưa ra một quan niệm về sau trở nên rất phổ thông trong Đại thừa: quan niệm về cách dùng “phương tiện thiện xảo”.

Trong giai đoạn đầu khi mới thành hình, phong trào Đại thừa khuyến khích các cư sĩ đi theo Bồ Tát Đạo, thoát khỏi ràng buộc gia đình và lập ý nguyện xuất gia, trở thành tu sĩ, hành trì để đạt đến một trình độ tâm linh cao thượng. Về sau, vai trò của cư sĩ tại gia lại được đề cao hơn, chẳng hạn như trong kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti-nirdesa). Từ quan niệm nguyên thủy Bồ Tát là người sắp thành Phật và thường dùng để chỉ các tiền thân của Phật Cồ Đàm, quan niệm về Bồ Tát trong Đại thừa được triển khai với ý nghĩa mới, trở thành một người cao thượng, giàu lòng hy sinh và từ bi để cứu nhân độ thế, làm việc từ thiện, chia xẻ công đức, đáp ứng các lời cầu nguyện, khuyến khích lễ lạc, phúng tụng, xây tháp v.v. Quan niệm nầy càng ngày càng trở nên phổ thông, nhất là khi Đại thừa được truyền sang Trung Hoa và một số kinh điển đã được trước tác thêm tại đó.

Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ học tập và hành trì theo cả hai truyền thống Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, có khi họ cùng ở chung một tự viện. Ngay cả các nhà hành hương Trung Hoa cũng không phân biệt được Đại thừa như là một phong trào riêng rẻ trước thế kỷ 4 Công Nguyên. Về sau nầy, danh từ Tiểu thừa (Hinayana) đã bị nhiều người đồng hóa với ý nghĩa hạ tiện, thấp kém, và do đó cần phải tiến lên một mức độ cao hơn của Đại thừa (Mahayana).Trong ý nghĩa lịch sử, danh từ Hinayana khởi nguyên do các kinh điển Mahayana đặt ra để chỉ những truyền thống và bộ phái nguyên thủy vốn không công nhận các kinh điển mới của phong trào Đại thừa.

Bài viết trên đây là toàn bộ bài Tiểu Luận Quá Trình Hình Thành Đại Thừa Phật Giáo hoàn toàn hay mà mình đã triển khai và liệt kê đến cho các bạn cùng xem và tham khảo. Nếu như nguồn tài liệu mình đã tiến hành triển khai sau đây chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của bạn thì ngay bây giờ đây hãy liên hệ ngay đến dịch vụ viết thuê tiểu luận của chúng tôi qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá làm bài tiểu luận và hỗ trợ lựa chọn cho các bạn một đề tài phù hợp điểm cao nhé.

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

Contact Me on Zalo