Dưới đây là bài Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản ,các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí,đây là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản trên chuyên mục tiểu luận triết học .
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562
I. Những vấn đề lý luận về giá trị thặng dư. ( Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản )
1. Quan điểm của Mác–Ăngghen, chủ nghĩa Mác-Lênin về giá trị thặng dư.
A. Quan điểm của chủ nghĩa Mác–Ăngghen về giá trị thặng dư
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác. Nhưng, để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt nó trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc (trong từng giai đoạn lịch sử nhất định). Sinh thời, chính Ph.Ăngghen đã khẳng định: nhờ hai phát hiện: chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó. Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ giữa cái bất biến và cái khả biến trong việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư. Cái bất biến chính là tính khoa học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính khoa học đó cần phải được vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện lịch sử nhất định của thực tiễn sinh động.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Theo quan điểm của C.Mác thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của nó thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó. Giả định có một số người nhờ mánh khóe mà chuyên mua được rẻ bán được đắt thì như C.Mác nói điều đó chỉ có thể là giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi mà chỉ có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá trị thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới. Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“Vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông”(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN
B. Quan điểm của Lênin về giá trị thặng dư
Trên cơ sở nghiên cứu nền kinh tế Nga, Lênin đã chỉ rõ rằng giai cấp công nhân là giai cấp những người sản xuất ra hàng hóa, tạo ra giá trị thặng dư và là giai cấp làm thuê. Ngoài việc bị tư bản địa chủ bóc lột, người lao động còn phải chịu ách nô dịch, sự cướp bóc của tư bản thương mại và tư bản cho vay nặng lãi.
Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu nền kinh tế Nga, Lênin cũng đã làm phong phú thêm, bằng những luận điểm mới, những phần khác của chính trị kinh tế học về chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là lý luận về sự phát sinh và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, về sự chuyển hóa của kinh tế hàng hóa giản đơn thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Lênin cũng đã chỉ ra rằng dưới ách thống trị của tư bản, quần chúng nhân dân bị đẩy vào vòng bị bóc lột và bần cùng, rằng con đường duy nhất để thoát khỏi ách nô dịch của bọn địa chủ và xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc là con đường làm cách mạng, là nhân dân phải tự đứng lên đòi quyền lợi về cho mình. Cần phải có nhận thức mới; như vậy, mới có thể tìm thấy hạt nhân hợp lý của lý luận giá trị thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay. Chính Lênin cũng đã căn dặn rằng: Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà người đời sau cần phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Rõ ràng, những chỉ dẫn đó của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy, những thế hệ sau Mác phải nghiên cứu, xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ hiện thực cụ thể, chứ không phải là để phê phán, phủ nhận nó.
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Thật vậy, giá trị thặng dư phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Do vậy mà các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
XEM THÊM 999+ ==> KHO TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
A. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động tất yếu; trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản dùng để tăng giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân, trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 150% (m’=150%).
Với lòng tham không đáy, nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hóa, nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có thời gian để ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí…để phục hồi sức khỏe nhằm tái sản xuất lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, cũng như tôn giáo của mình. Ngoài ra, việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người, mặt khác còn do đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngạy. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
B. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả thiết rằng công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng dư trong trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%(m’=300%).
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn sau, khi kĩ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Tóm lại, hai phương thức cơ bản mà nhà tư bản sử dụng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Giữa hai phương pháp này có điểm giống nhau là đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân, không chỉ đủ nuôi sống mình mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động thặng dư(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
II. Vấn đề bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản.
1. Lịch sử hình thành chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản ra đời đã phải trải qua giai đoạn tích lũy ban đầu từ hai yếu tố là vốn và lao động làm thuê. Tầng lớp quý tộc và tư sản đã dùng mọi thủ đoạn từ cướp bóc, buôn bán, đến bần cùng hoá, tước đoạt tư liệu sản xuất của nông dân. Cuối cùng, đã xuất hiện các hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong các ngành kinh tế thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Do đó, các giai cấp mới được hình thành: giai cấp tư sản vốn là những ông chủ các công trường thủ công, chủ ngân hàng, chủ trang trại; những người lao động bị bóc lột trở thành người vô sản.
Điều kiện cơ bản để dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển của kinh tế hàng hoá; tuy nhiên, cần phải trải qua quá trình tích lũy tư bản.
Quá trình tích luỹ tư bản được thực hiện bằng nhiều biện pháp.
Sau các cuộc phát kiến địa lí rầm rộ, cac tầng lớp quý tộc và thương nhân ra sức cướp bóc của cải của các nước thuộc địa ở châu Mĩ, châu Phi và châu Á đem về Tây Âu.
Người Bồ Đào Nha chuyên chở về nước nhiều vàng, hàng hoá quý hiếm và hương liệu mà họ kiếm được từ châu Phi, Ấn Độ.Việc buôn bán nô lệ đem lại lợi nhuận đặc biệt. Từ năm 1442, người ta đã bắt đầu xuất cảng nô lệ da đen đến Bồ Đào Nha. Tầng lớp thương nhân nắm độc quyền thương mại, vừa buôn bán, vừa đánh cướp các đoàn thuyền của các nước khác. Thậm chí, bằng sức mạnh quân sự và những chính sách đe doạ, họ đã mua được những hàng hóa với giá cả cực kì rẻ mạt.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Bọn quý tộc phong kiến và giai cấp tư sản còn dùng cả bạo lực để cướp đoạt ruộng đất của nông dân.
Ở nhiều nơi diễn ra phong trào “rào đất cướp ruộng”, nông dân bị đuổi đi, còn ruộng của họ thì biến thành các đồng cỏ chăn cừu. Hàng vạn nông dân trở thành người lang thang, buộc phải đi làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Nhiều người vì các khoản đóng góp quá nặng nề, vì sách nhiễu của bọn quan lại, vì nợ nần… đã bị phá sản. Ngay ở thành thị, nhiều thợ thủ công do vay lãi, do thuế khoá cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất và phải đi làm thuê.
Như vậy, quá trình tích luỹ ban đầu là quá trình tập trung vốn vào tay một số ít người, đồng thời cũng là quá trình tước đoạt tư liệu sản xuất của nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, biến họ thành những người làm thuê. Công cuộc tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu được tiến hành bằng một lối phá hoại tàn nhẫn, tích lũy dần tư liệu cuối cùng hình thành nên chủ nghĩa tư bản.
2. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu
Từ thế kỉ XVI, sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm cho quan hệ sản xuất phong kiến bắt đầu tan rã. Tô tiền thay thế cho tô hiện vật và nhiều nghĩa vụ khác. Người ta có thể dùng tiền để chuộc lại tự do cho nông nô. Nông nô, sau khi được giải phóng, trở thành người lĩnh canh ruộng đất, nộp tô tiền cho địa chủ. Quý tộc phong kiến ngày càng sa sút, nghèo túng.
Sự giải thể của quan hệ sản xuất phong kiến, cùng với những tiến bộ về khoa học – kỹ thuật, đã tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản hình thành.
Nhờ có quá trình tích luỹ tư bản ban đầu ở Tây Âu đã xuất hiện những hình thức kinh doanh chủ nghĩa tư bản.
Nhiều công trường thủ công đã xuất hiện thay thế cho các phường hội.
Quy mô của các công trường thủ công nói chung hãy còn nhỏ, khoảng trên 100 công nhân; nhưng đã có sự phân công lao động, chuyên môn hoá theo dây chuyền sản xuất, mỗi người thợ chỉ làm một số thao tác trong cả dây chuyền mà thôi.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
XEM THÊM ==> CÁCH LÀM TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐIỂM CAO
Quan hệ giữa người chỉ huy, quản lý xí nghiệp với công nhân là quan hệ giữa chủ và thợ. Toàn bộ nhà xưởng, công cụ và nguyên liệu là của chủ, còn người sản xuất thì phải bán sức lao động. Ở đây,chủ công trường thủ công là nhà tư bản chiếm được nhiều lợi nhuận, còn thợ thì bị bóc lột.
Trong nông nghiệp, do sự thay đổi trong việc sử dụng ruộng đất, cơ cấu giai cấp ở nông thôn cũng thay đổi. Quan hệ lãnh chúa – nông nô trước kia được thay thế bằng quan hệ chủ trại ấp – công nhân nông nghiệp.
Ở nông thôn, nền sản xuất nhỏ của nông dân dần bị xoá bỏ và thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại, sản xuất theo quy mô lớn để cung cấp cho thị trường. Người lao động (trồng trọt hay chăn nuôi) trở thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công, ăn lương. Bọn quý tộc phong kiến cũng chuyển sang kinh doanh ruộng đất theo hình thức trang trại, bóc lột công nhân nông nghiệp và trở thành tầng lớp quý tộc mới.
Trong ngành thương nghiệp, các thương hội trung đại được thay thế bằng các công ti thương mại. Các công ti này hoạt động trên cơ sở hùn vốn, vừa buôn bán, vừa cướp bóc. Thương mại quốc tế phát triển rộng rãi. Hội chợ quốc tế là nơi giao lưu của các thương khách từ nhiều nước khác nhau. Các tuyến buôn bán đường dài được hình thành.
Từ những thay đổi trên, xã hội Tây Âu có sự biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những thợ cả, thương nhân, thị dân giàu có, quý tộc mới chuyển sang kinh doanh, dần trở thành các ông chủ của các công trường thủ công, các tàu buôn lớn, các ngân hàng và các trang trại. Họ làm thành giai cấp tư sản, bóc lột những người làm thuê, nắm nhiều của cải; mặc dù chưa có địa vị chính trị trong xã hội phong kiến nhưng họ đại diện cho nền sản xuất mới tiến bộ. Những người lao động làm thuê thì đông, đó là những người vô sản. Họ bị bóc lột thậm tệ, sau này đi theo giai cấp tư sản đấu tranh chống phong kiến.
Tuy mới ra đời và còn nhiều non yếu nhưng chủ nghĩa tư bản đã tỏ ra hơn hẳn chế độ phong kiến về nhiều mặt, có những ảnh hưởng lớn lao đối với toàn xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, nếu xem xét lịch sử của thế giới với những cuộc chiến tranh, cũng như nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản chúng ta sẽ thấy có những điều rất lý thú. Mác đã khẳng định mục đích cao nhất của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận và để đạt được mục đích siêu lợi nhuận thì chủ nghĩa tư bản sẽ không từ một thủ đoạn nào kể cả phải lên giá treo cổ. Đây là một chân lý mà kể cả những nhà nghiên cứu tâm lý, kinh tế học và triết học ở những nước tư bản cũng phải thừa nhận.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
3. Thực trạng của vấn đề bóc lột GTTD của giai cấp công nhân trong CNTB.
Bóc lột giá trị thặng dư là hiện tượng nhà tư bản chiếm một phần giá trị mới do người công nhân tạo ra. Nguyên nhân là, nhà tư bản được quyền sở hữu toàn bộ giá trị mới do công nhân tạo ra, nhưng vì nhà tư bản phải trả cho công nhân một phần bằng đúng giá trị sức lao động, thế nên, phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản được hưởng bằng giá trị mới trừ giá trị sức lao động.
Nhà tư bản là những người có tư liệu sản xuất, nắm trong tay tài sản và là giai cấp thống trị. Còn công nhân là những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động của mình cho các nhà tư bản, phải đi làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Người công nhân được xem như là công cụ giúp nhà tư bản hái ra tiền. Vì vậy mà trong quá trình sản xuất nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột, bóc lột giá trị thặng dư được nhà tư bản thực hiện bằng sự gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian của ngày lao động, rút ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày – chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư – chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.
Việc đấu tranh của giai cấp công nhân là nhằm chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng dư, đòi phân chia giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý. Nhưng khi mà yêu cầu căn bản này không được thực hiện-nhà tư bản cứ thế thẳng tay bóc lột, lấy cho bằng hết các loại giá trị thặng dư.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Tuy nhiên do trình độ đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Trong điều kiện hiện nay do kĩ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kĩ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.
Cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kĩ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó, lao động trí tuệ, lao động có trình độ kĩ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỉ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi ngang giá…lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển đã tăng lên gấp nhiều lần so với trước.
Các khía cạnh liên quan đến sự sản sinh, sự chiếm đoạt và đặc điểm sản xuất giá trị thặng dư hiện nay như vừa đề cập ở trên phải được đặt gọn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chúng được bảo hộ bằng nền chính trị (có khi cả quân sự) của chủ nghĩa tư bản. Vậy chiếm đoạt giá trị thặng dư chính là sự bóc lột mà giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp công nhân làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghĩa.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
4. Giải pháp
Một là, đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
“Tức nước vỡ bờ” – thật vậy khi quyền lợi của mình không được thực hiện, công sức lao động của mình làm ra mà không thu về giá trị tương ứng thì người công nhân phải tự mình đứng lên đấu tranh, tự mình đòi quyền lợi về cho mình. Ngược dòng lịch sử từ mấy thế kỉ qua, lớp lớp người lao động đã vùng lên đấu tranh chống áp bức, chống đánh đập công nhân, đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc. Từ trong máu lửa đấu tranh, phong trào công nhân rồi giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh, ngày quốc tế lao động 1-5 ra đời từ đây.
Do vậy mà đấu tranh là một trong những biện pháp góp phần hạn chế việc bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản, đem lại quyền lợi chính đáng, phù hợp với công sức lao động mà người công nhân bỏ ra.
Hai là, nâng cao trình độ hiểu biết của con người.
Bóc lột không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên lĩnh vực chính trị – xã hội. Hơn nữa, quá trình bóc lột không chỉ mang yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị mà mang cả yếu tố văn hoá. Con người lạc hậu về mặt tư tưởng trong một thời gian dài sẽ trở nên khô héo về tinh thần, trở nên tụt hậu với đời sống thực tiễn và kéo theo đó là sự lạc hậu của cả xã hội.
Chính vì vậy mà việc nâng cao trình độ hiểu biết sẽ góp phần giải phóng con người ra khỏi đời sống kém phát triển và tạo không gian tự do để con người có thể phát huy hết năng lực sáng tạo của mình. Đồng thời đó cũng là điều kiện để phát triển xã hội.
Ba là, thay thế lao động giản đơn bằng lao động phức tạp.
Ngày nay, con người không ngừng sáng tạo và sự sáng tạo đồng nghĩa với phát triển, nền kinh tế cũng phát triển theo chất lượng của con người. Do vậy, lao động đơn giản không còn là động lực chính cho sự phát triển mà thay vào đó là lao động sáng tạo. Bản chất của lao động thay đổi làm cho giá trị chứa trong lao động cũng thay đổi và nó tạo ra sự phát triển năng lực lao động của con người.(Tiểu luận: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản)
Bốn là cần có sự điều chỉnh về hình thức sở hữu quản lý và phân phối sản phẩm.
Nhà nước cần tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội của giai cấp công nhân, quan tâm hơn đến giá trị mà người công nhân đã bỏ ra, cần có những sự điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu quản lý và phân phối để thích nghi với tình hình hiện tại, phân chia lại giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý, hợp tình.
Năm là, dân chủ hóa nền kinh tế – chính trị.
Dân chủ tạo ra tự do cho con người, cả tự do sáng tạo, cả tự do tìm kiếm, cả tự do bán sức lao động cũng như tự do dịch chuyển và sử dụng các sở hữu để có lợi nhất. Do đó dân chủ chính trị kết hợp với tự do kinh tế là chìa khóa của sự giải phóng con người ra khỏi bóc lột.
Những giải pháp trên là nhằm ngăn chặn việc chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản, góp phần đem lại quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động, giải phóng con người ra khỏi sự áp bức bóc lột, đem lại sự tự do dân chủ cho con người, hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài: Phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản , dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương : còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.
Lưu ý: Có thể trên website không có tài liêu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/ZALO: https://zalo.me/0932091562