Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn

Rate this post

Dưới đây là bài Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn  ,các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí,đây là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn trên chuyên mục tiểu luận triết học .

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562


PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ  LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.

1- Các khái niệm quy luật từ những thay đổi về lượng

1.1- Khái niệm về chất

Chất là tính quy định vốn có của sự vật  hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính và đặc điểm  cấu trúc của sự vật. Tính quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua  các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản  thì trong quá trình tồn tại  của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản  mới nảy sinh vàcó những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan hệ với sự vật khác.

Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng

1.2-Lượng của sự vật

Là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác.

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân..v..v

1.3- Khái niệm về Độ

Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản  về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại  trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật không còn là nó. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác.

1.4-Điểm nút 

Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút.

1-5-Bước nhảy

Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy.

Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản  từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.

+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng  một sự bùng nổ mãnh liệt. VD cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.

+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện  bằng việc loại bỏ dần  những yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới.

XEM THÊM 999+  ==> KHO TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

2- Nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dấn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.

Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.

Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi  về lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

Nội dung duy luật này được phát biểu như sau

Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút  thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.

Điều cần chú ý  là:

-Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn toàn xác định, mối quan hệ này hình thành một cách khách quan chứ không thể gán ghép một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.

-Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá, còn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản về chất, còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình thức cơ bản của cách mạng. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

3- Ý nghĩa phương pháp luận

-Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất.

-Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại

-Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì ngược lạikhi lượng biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.

PHẦN II: VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH  HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

1-Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng  CNXH ở nước ta

Kinh tế thị trường định hướng XHCNthực chất là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước  theo định hướng XHCN nhưng được diến đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình hinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu  tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải nền kinh tế thị trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có đầy đủ các yếu tố CNXH.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách quan. Bởi vì.

– Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức và vận dụng quy luật vè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH.

– Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện hoá dần dần CNXH, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ, vừa có CNXH vừa còn CNTB. Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với bản chất của thời kỳ lịch sử đặc biệt này.

– Chúng ta đã biết thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu kinh tế – xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời đang lớn lên từng bước nhưng chưa dành toàn thắng.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này sang chế độ khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào  giữ vị trí thống trị tuyệt đối, trong đó mỗi phương thức  chỉ là một “mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã hội, vừa độc lập tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi “bộ phận” ấy là một thành phần kinh tế.

Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa vươn lên đóng vai trò thống trị, nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối, nó tồn tại như một bộ phận tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã hội. Do vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kỳ quá độ lên CNXH. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.

Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng cha chưa tích luỹ được đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất  XHCN ngay như trước năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.

XEM THÊM ==> CÁCH LÀM TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐIỂM CAO

2- Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi mới.

Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần  dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là  bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm như vậy là chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một bên là quan hệ sản xuất được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói cách khác khi lực lượng sản xuất của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ  về lượng (tính chất và trình độ) đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất XHCN) làm cho đất nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội. (Tiểu luận: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn)

Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xuất phát từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao.

Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều thành phần là phù  họp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế- xã hội.


Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài:Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn  , dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương : còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liêu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/ZALO: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Contact Me on Zalo