Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần  kinh tế

Rate this post

Dưới đây là bài Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần  kinh tế ,các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí,đây là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần  kinh tế trên chuyên mục tiểu luận triết học .

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562


Phần I: CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CÁCTHÀNH PHẦN KINH TẾ

1. Nội dung của quy luật mâu thuẫn phép biện chứng

Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật và  là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của quy luật chỉ  ra cho chúng ta thấy nguồn gốc, động lực của sự phát triển.

Quan điểm  siêu hình cho rằng sự vật là một thể đồng nhất tuyệt đối,   chúng không có mâu thuẫn bên trong. Thực chất của quan điểm này là phủ nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Còn quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho rằng sự vật, hiện tượng luôn luôn có mâu thuẫn  bên trong và mâu thuẫn là hiện tượng khách quan chủ yếu bởi vì sự vật hiện tượng của thế giới khách quan đều được tạo thành từ nhiều yếu tố, nhiều bộ  phận, nhiều quá trình  khác nhau. Giữa chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau   trong đó sẽ có những liên hệ trái ngược nhau,  gọi là  các mặt  đối lập tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Các mặt  đối lập thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi nhất định, làm cho sự  vật vận động phát triển.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

Các mặt đối lập là những  mặt có xu hướng phát triển trái ngược nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau  trong một chỉnh thể duy nhất là sự vật. Quan hệ đó thể hiện các mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sư lương tựa, rằng buộc, phụ thuộc lẫn nhau làm tiền đề để tồn tại và phát triển cho nhau,  có mặt này mới có  mặt kia. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự  bài trừ gạn bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập cùng tồn tại trong một thể thống nhất, chúng thường xuyên muốn tiêu diệt lẫn nhau. Đó là một tất yếu khách quan không tách rời  sự thống nhất  giữa chúng.

Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt  đối lập tồn tại không tách rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiện nhất định  với một thời gian  xác định. Bất cứ sự thống nhất   nào cũng diễn ra  sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho nó luôn luôn có xu hướng chuyển thành cái khác. Còn đấu tranh diễn ra từ khi  thể thống nhất  xác lập  cho đến khi   nó bị phá vỡ để chuyển thành mới. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trải qua nhiều giai đoạn với  nhiều hình thức khác nhau, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột, từ  xung đột đến mâu thuẫn. 

Đến đây nếu có đủ điều kiện thích hợp  thì nó diễn ra sự chuyển hoá cuối cùng giữa các mặt đối lập. Cả hai đều có sự thay đổi về chất, cùng phát triển đến một  trình độ cao hơn. Từ đó mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ và quá trình lại tiếp tục.

Vì thế đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong  của sự phát triển.

2. Tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần 

Trong thời kỳ  quá độ còn tồn tại nhiều thành phần  kinh tế do lịch sử  để lại và còn có lợi cho sự phát triển kinh tế CNXH: Kinh tế tư bản tư nhân,  kinh tế  cá thể.

Thực tế ở Việt Nam, thành phần kinh tế tư nhân đã có đóng  góp ngày càng  tăng vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ đầu thập niên đến nay. Nếu tính  toàn  bộ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung, đóng góp của khu vực này qua các năm như sau (theo giá năm 1989):                                                                 

1990 1991 1992 1993 1994
19.856 20.755 22.201 23.623 25.224

(Tỉ đồng)

Cao hơn so  với thành phần kinh tế quốc doanh   lần lượt là: 10.186  tỷ; 10.224 tỷ; 10.411tỷ; 10.511 tỷ; 10.466 tỷ. Tỷ lệ đóng góp  vào ngân sách    qua thuế công thương nghiệp, dịch vụ của kinh tế ngoài quốc doanh   so với GDP cũng tăng liên tục từ năm 1991 đến 1994: 3,8%; 5,2%; 6,3%; và 5,5%. Thành phần kinh tế cá thể  có  khả năng  đóng góp nhiều lợi ích  cho xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm, truyền thống sản xuất. Nó      có phạm vi hoạt động rộng trong phạm vi cả nước,  có mặt các vùng kinh tế, sản xuất trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình   cải tạo XHCN nền kinh tế cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới: Kinh tế tư bản  Nhà nước, các loại kinh tế HTX.

Trong  quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế mới, vẫn còn bị ảnh hưởng những khuyết tật của cơ chế cũ,  cơ chế tập chung quan liêu bao cấp đã phủ định những mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế quá độ. Sự mâu thuẫn   giai cấp trong  xã hội tuy   không gay gắt nhưng cũng có   những hạn chế nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Mâu thuẫn  giai cấp là một tất yếu, khách  quan của bất kỳ một xã hội nào và mâu thuẫn chính là cơ sở cho sự phát triển của   xã hội đó.  ở nước ta, bên cạnh mâu thuẫn giai cấp còn có  mâu thuẫn  chế độ sở  hữu. Mấy năm trước đây đã ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu,  xác lập chế độ công hữu về  tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyêts  thông qua đổi mới để khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò của sự tồn tại  của hình thức tư hữu trong  tính đa dạng các hình thức sở hữu. Cần gắn với  sở hữu với lợi ích  kinh tế vì  lợi ích kinh tế là bản chất kinh tế của xã hội.

Nước ta quá độ lên CHXN, bỏ qua chế độ Tư bản, từ một nước xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến,  lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, kinh tế   nông nghiệp kém phát triển. Bên cạnh những nước XHCN đã đạt  được những thành tựu  to lớn  về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình  và cách mạng thế giới, cho việc    đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc  đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ  xã hội vẫn còn là một nước XHCN lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Vì thế mâu thuẫn  giữa CHXH và CNTB đang diễn ra gay gắt. Trước  mắt CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu đổi mới khoa học công nghệ, cải tiến  phương pháp quản lý. Chính nhờ những thứ đó mà các nước   tư bản có nền đại chủ nghĩa tư bản phát triển.

Các nước XHCN trong đó có Việt Nam phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức    chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ  độc lập  và chủ quyền dân tộc. Chính sự vận động của tất cả các mâu thuẫn đó đã dẫn tới hậu quả tất yếu phải đổi mới nền kinh tế nước ta và một trong những thành tựu về đổi mới nền kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng độc quyền,  tạo ra động lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần  là đặc trưng cơ bản của kinh tế  quá độ, vừa là tất yếu, cần thiết, vừa là phương tiện  để đạt  được mục tiêu của nền sản xuất xã hội nó vừa tạo  cơ sở làm chủ về kinh tế vừa đảm bảo  kết hợp  hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó là đông lực của sự phát triển.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

XEM THÊM 999+  ==> KHO TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

3. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế

3.1 Mặt thống nhất

Hiến pháp Nhà nước 1992 xác nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý   của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Đại hội Đảng  toàn quốc lần thứ VI và lần thứ VIII  đã được xác định nền kinh tế nước ta  tồn taị 5 thành phần kinh tế.

Thành  phần kinh tế quốc doanh (kinh tế Nhà nước), thành phần kinh tế tập thể (hợp tác), thành  phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ. Hiện nay chúng ta  công nhận các thành phần kinh tế trong thời kỳ   quá độ tiến lên CNXH, xác nhận sự tồn tại lâu  dài của nó hơn nữa lại tuyên bố phát triển  tất cả   các thành phần  kinh tế   đó theo định hướng XHCN. Đây không phải là    một giáo  điều sách vở mà là những kinh nghiệm rút ra t ừ thực tế,   những thể hiện từ những thất bại. Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế được tóm tắt thành 3 điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả  kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân.

Mục tiêu cũng chính đã thể hiện nhất quán từ hội nghị Trung ương lần thứ VI khiến Đảng ta phải ban hành những chính sách để khuyến khích sản xuất “bung ra” và cho đến nay,  trong chính sách  phát triển  5 thành phần  kinh tế chúng ta vẫn thấy cần  thiết thực sự  lưu ý đến các thành phần  mà trước đây gọi là phi XHCN, là đối tượng phải cải tạo ngay khi   bước vào  thời kỳ xây dựng CNXH. Chẳng hạn như chính sách khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm   đầu tư  lâu dài, mọi thành phần  kinh tế được  bình đẳng, vay vốn sản xuất, bảo vệ  quyền  sở hữu  và hợp pháp của các nhà tư bản, áp dụng phổ biến  và phát triển  đa dạng các hình thức kinh tế tư bản  Nhà nước. Chính nhờ việc  phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,  công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt  những kết quả quan trọng. Cơ chế  vận hành  nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần  theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách  và các công cụ khác. Trong cơ chế đó các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác     và liên doanh tự  nguyện, thị trường có vai trò  trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động vàphương án  sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước  quản lý nền kinh tế  nhằm định hướng, tạo môi  trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động  sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường,  kiểm soát chặt chẽ và sử lý vi phạm pháp luật  trong hoạt động kinh tế, bảo  đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Công cuộc cải cách kinh tế ở Việt nam  đã làm nền kinh tế thay da đổi thịt đưa tốc độ phát triển kinh tế  bình quân từ 4,9%  trong thời kỳ 1986 – 1990 lên 7,7% trong thời kỳ 1990 – 1995 và giảm  tốc độ lạm phát từ 7,75% (năm 1986) xuống 12,7% (1995). Thành công của cải cách không những là  nhờ các chính sách  tài chính tiền tệ  thích hợp và còn vì việc mở  cửa cho nền kinh tế khu vực  tư nhân vào đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế thành phần, không phân biệt đối xử không tước đoạt tài sản  hợp pháp, không gò ép tập thể  tư liệu  sản xuất, không áp đặt hình  thức kinh doanh khuyến khích  các hoạt động cho quốc tế nhân sinh. Các thành phần kinh tế nước ta có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất. Chúng đều là bộ  phận cấu thành của hệ thống  nhân công lao động xã hội  thống nhất và mục tiêu duy nhất và chung nhất của chúng ta là đáp ứng  nhu cầu của xã hội và cư dân trên thị trường để hướng tới một mục đích cuối cùng phát triển nền kinh tế đất nước, đưa nước ta trở thành  một nước có nền công nghiệp  phát triển.

Nền kinh tế nhiều thành phần nước ta phát triển theo định hướng XHCN nhưng đều   chịu sự  điều tiết  thống nhất của các quy luật kinh tế khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ (Nước ta  trong thời kỳ quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi  to lớn và sâu sắc). Đó là”Kinh tế  quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể  không ngừng được củng cố mở rộng. Kinh tế  cá thể còn có phạm vi  tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ  và cùng có lợi. Tư bản tư nhân  được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế  tư bản  Nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế  gia đình được khuyến khích phát triển mạnh  nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các  hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng.

Các tổ chức kinh tế chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh “Mặc dù thành phần kinh tế  đều chịu sự  điều tiết của Nhà nước những mỗi thành  phần đã được  nhân dân hưởng ứng  rộng rãi và đi nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp  phần  phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậyđược nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ tạo thêm việc làm sản xuất cho xã hội thúc đẩy sự hình thành và phát triển  nền kinh tế hàng hoá,  tạo ra  sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Sự  phát triển  của các thành phần kinh tế là quá trình thực hiện sự kết hợp và lợi ích kinh tế  xã hội, tập thể   và người lao động    ngày càng cao hơn.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

3.2 Mặt mâu thuẫn:

Quy luật không những chỉ ra quan hệ giữa các mặt đối lập mà còn chỉ ra cho chúng ta thấy, nguồn gốc, đông lực của sự phát triển chính vì thế trong sự phát triển các thành phần kinh tế nước ta hiện nay bên cạnh mặt thống nhất còn song song phát triển theo định hướng  tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy đó mới chỉ là khả năng  vì thực trạng kinh tế – xã hội nước ta và tương quan lực lượng  trong bối cảnh quốc tế như hiện nay  khi vận mệnh của đất nước phát triển theo hướng XHCN “Chưa phải là một cái gì không thể đảo ngược lại. Là  quyết tâm  cao kiên định chưa đủ mà phải có đường lối sáng suốt khôn ngoan của một chính Đảng cách mạng tiên tiến giàu trí tuệ và đặc biệt  phải có bộ máy  Nhà nước mạnh”. Mâu thuẫn  cơ bản trên còn thể hiện  giữa một bên gồm những lực lượng và khuynh hướng  phát triển  theo định hướng XHCN trong tất cả các thành phần kinh tế, được sự cổ vũ, khuyến khích hướng dẫn, bảo trợ của những lực lượng chính trị – xã hội  tiên tiến với một bên là khuynh hướng tự phát và những lực lượng và những lực lượng gây tổn hại cho quốc tế nhân sinh.

Mâu thuẫn  cơ bản  này được quyết định những mâu thuẫn  kinh tế – xã hội khác cả về chiều rộng và chiều sâu, trong quá trình phát triển kinh tế  nhà nước theo định hướng XHCN. Do đặc điểm  của thời kỳ  quá độ tiến lên XHCN  ở nước ta  là phát triển mạnh mẽ   và nhanh chóng lực lượng sản xuất, khắc phục   những kinh tế lạc hậu và lỗi thời bằng  cách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế  thị trường có sự quản của Nhà nước để đưa nền kinh tế  nước ta đi lên CNXH. Do đó  mâu thuẫn kinh tế cơ bản  ẩn chứa  bên trong quá trình này là: mâu thuẫn  giữa hai định hướng phát triển kinh tế – xã hội: Định hướng XHCN và định hướng  phi XHCN. Đó là mâu thuẫn     bên trong  của nền kinh tế  nước ta hiện nay. Hai định hướng  đó song song  và thường xuyên tác động lẫn nhau  tạo thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản chi phối quá trình  phát triển nền kinh tế nước ta  trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Do vậy vận động nền kinh tế nước ta không thể tách rời sự vận động của thế giới của thời đại.

Ngày nay những nhân tố bên trong và bên ngoài của cách mạng Việt Nam gắn bó khăng khít với nhau hơn bao giờ hết cho nên  còn có một mâu thuẫn nữa tác động mạnh mẽ  vào quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta  hiện nay là mâu thuẫn của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng giữ vững nền độc lập dân tộc  và kiên định đi theo con đường XHCN với các thế lực phản động trong và ngoài nước. Có một  điều có vẻ như ngược đời trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay là xây dựng CNXH bằng cách mở rộng đường cho CNTB. Nhưng CNTB ở đây là CNTB hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN. Và không dẹp bỏ  kinh tế tư nhân  và TBCN như chúng ta  đã làm trước đây. Trái lại ngày nay chúng ta  bảo hộ và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Điều này  không phải là chúng ta thay đổi con đường phát triển kinh tế – xã hội, không phải là từ bỏ  sự lựa chọn XHCN. Việc xóa bỏ   chế độ tư hữu kiểu trước đây là trái với qui luật khách quan. Vì thế  sẽ không thúc đẩy  mà trái lại  làm trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, mục tiêu  dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh khó có thể  thực hiện được.

Do đó   tình trạng nghèo nàn lạc hậu là”giặc dốt”v.v… vẫn còn tồn tại trên đất nước ta.  Đây là những  nguy cơ và hiểm hoạ đối với sự tồn vong  của  cơ chế mới mà chúng ta đang gắng sức xây dựng. Sự phát triển của kinh tế cá thể, tư bản   tư nhân ở trong nước và việc mở cửa cho CNTB nước ngoài đầu tư vào  nước ta  dưới nhiều hình thức của “chế độ tô nhượng”, đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ sẽ thực sự làm cho nền kinh tế mạnh lên, nhưng cũng thực sự  sẽ diễn ra 2 cuộc đấu tranh giữa hai định hướng phát triển kinh tế xã hội. Chính sách phát triển cơ cấu kinh tế  nhiều thành phần đòi hỏi có sự khuyến khích    kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ  vì  hiện nay sự  phát triển đó còn thấp, chưa tương ứng với tiềm năng hiện có. Tuy nhiên đường lối đó cũng  đòi hỏi thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Chỉ có   như vậy mới làm cho các thành phần kinh tế khác ngày càng mạnh lên, phát huy  tốt vai trò  chỉ đạo và hợp thành nền tảng kinh tế Quốc dân. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, nhưng không có vai trò, vị trí như nhau trong quá trình hình thành và xây dựng chế độ kinh tế – xã hội mới. Kinh tế  mà nòng cốt là các doanh nghiệp Nhà nước   giữ vai trò chủ đạo.

Trong quá trình tổ chức xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước ta sử dụng một phần vốn tài sản thuộc sở hữu  Nhà nước xây dựng khu vực doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, Nhà nước sử dụng các doanh nghiệp Nhà nước như một “công cụ vật chất để vừa hướng dẫn, điều chỉnh những biến động tự phát triển của thị trường;  vừa “mở đường” làm “đầu tàu” thu hút,  lôi kéo các thành phần kinh tế khác phát triển  theo định hướng, chiến lược và kế hoạch của Nhà nước, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 đã nêu rõ”khu vực quốc doanh được sắp xếp lại, đổi mới   công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chỉ đạo và chức năng của công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước”. Như vậy bên cạnh quan hệ thống nhất có liên quan mật thiết đến nhau của các thành phần kinh tế còn tồn tại những mâu thuẫn giữa các thành  phần kinh tế.

Những mâu thuẫn này tạo động lực và tiền đề cho sự phát triển của nền kinh tế. Năm thành phần kinh tế nước ta đến nay , không chỉ có mâu thuẫn bên ngoài  giữa các thành phần kinh tế mà có mâu thuẫn bên trong bản thân các thành phần kinh tế  mà muốn hiểu đúng bản chất của sự vật muốn xác định được xu thế   phát triển  của nó phải tìm cho được mâu thuẫn bên trong của    sự vật.  Bên trong bản thân  các thành phần kinh tế còn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích các ngành trong thành phần kinh tế đó, những ngành  độc quyền  như CN quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước, Bưu chính   viễn thông, không phải là không chịu sự cạnh tranh khốc liệt  của nền kinh tế  thị trường. Ngành nào c ũng muốn – kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế hiện nay thực hiện điều đó không phải là dễ dàng. Nhưng chính sự cạnh tranh  đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển cao hơn với chất lượng và số  lượng sản phẩm ngày càng  phong phú hơn. Chuyển sang kinh tế thị trường tất yếu  phải hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.

Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế dân tộc đều không  hướng tới xuất khẩu, không coi mũi nhọn  vươn lên  ra bên ngoài thì không  thể đưa nền kinh tế  trong nước tăng trưởng theo kịp bước tiến hoá chung của nhân loại. Nền ngoại thương Việt Nam những năm 1981 – 1982 còn nhỏ bé và mất cân đối nghiêm trọng. Tổng kim ngạch không vượt quá  500 triệu USD và tỉ lệ   xuất nhập  là 1/4 (xuất 1 thì nhập 4). Những năm đầu  thay đổi (1986 – 1987) kim ngạch xuất khẩu khoảng 800 triệu USD với tỷ lệ xuất nhập khẩu là 1/1,7.Năm 1986 – 1989   kim ngạch xuất khẩu đã trên 1 tỷ USD, năm 1991  gần 2 tỷ USD và năm  1992 trên 2,4 tỷ với cán cân ngoại  thương thăng bằng. Đó là những bước tiến hết sức quan trọng tại những cơ sở, những  tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Đó là do sự cạnh tranh gay gắt của các ngành trong kinh tế quốc doanh, mà ngành nào cũng cho mình là then chốt. Đấu tranh và phát triển là hai mặt của hiện tượng, là quan hệ  nhân – quả của một vấn đề. Có đấu tranh mới có phát triển vì vậy như bất kỳ một giá trị nào, sự đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hoá g iữa chúng.

Trong cơ chế thị trường mặc dù là sự cạnh tranh rất khốc liệt “Thương trường là  chiến  trường” nhưng những gì còn tồn tại được và mặt hàng nào được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là do sự  nỗ lực đổi mới của bản thân ngành đó. Chính vì vậy các doanh nghiệp không thể ngồi yên thụ động mà phải  đổi mới, cải tiến đáp ứng nhu cầu của thị trường, thúc đẩy tính năng động sáng tạo và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là tính ưu việt của mâu thuẫn  nhưng bên cạnh đó những mâu thuẫn này cũng đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Đó là sự coi trọng lợi ích  và đồng tiền, vì tiền họ sẵn sàng  dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điều này  có sự ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển  chung của xã hội nhất là  xã hội Việt Nam ta muốn coi trọng những giá trị  văn hoá  truyền thống và đạo đức con người. Tính mâu thuẫn   giữa các thành phần kinh tế là còn ở chỗ do lợi ích lâu dài giữa các thành phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế có lợi ích riêng. Quá trình  phát triển  mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội,  quá trình phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý kinh tế, thực hiện  mạnh mẽ  sự phân công lao động sẽ khắc phục  tình hình mâu thuẫn  giữa các thành phần   kinh tế.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

XEM THÊM ==> CÁCH LÀM TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐIỂM CAO

Phần II: THỰC TRẠNG – GIẢI PHÁP  CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ

1. Thực trạng các thành phần kinh tế trong thời gian qua

1.1 Kinh tế quốc doanh:

Dựa trên sở hữu toàn dân tư liệu sản xuất, theo số liệu thống kê đến cuối năm 1989 cả nước có 12.080 xí nghiệp quốc doanh với vốn tương ứng là 10 tỷ đồng USD. Trong đó công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn,  xây dựng chiếm 9% tổng số vốn. Nông nghiệp chiếm 8,1% tổng số vốn lâm  nghiệp  1,2% tổng số vốn. CTVT : 14,8%; Thương nghiệp 11,6%; Các ngành khác 5,93% tổng số vốn. Hàng năm thành phần kinh tế này tạo ra    khoảng 35 –   40% GDP và từ 22 – 30% TNQD, đóng góp vào ngân sách từ 60 – 80% số thu của ngân sách Nhà nước. Thành phần kinh tế này nắm giữ toàn bộ  công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng phần lớn   phần   lớn những sản  phẩm chủ yếu   (100%) thuốc chữa bệnh 100% hàng dệt kim 85% giấy, 75% vải mặc, 60% xà phòng  và 70% xe đạp… không ai  có thể phủ nhận vai trò  và tầm quan trọng của kinh tế  quốc doanh đối với  nền kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta và tuy đã đạt một số thành       tích song khu vực kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo được tái sản xuất giản đơn, sự tăng trưởng kinh tế thực hiện  theo mô hình  chiều rộng (tăng vốn, tăng lao động); sự đóng góp của khu vực  này so với số chi của Nhà nước trở lại cho nó 1:3.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

*Hiện nay  sau đổi mới  cơ cấu thành phần kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, tuy có tạo nên sự  chuyển biến bước đầu, một số xí nghiệp đã vượt qua khó khăn tạo nên thế ổn định để đi ra và đi lên. Song những nhân tố đó   chưa nhiều và những chuyển biến đó  chưa  có cơ sở vững chắc và lâu dài. Đến 31/12/1991 đã có 500 xí nghiệp  Nhà nước phá sản và ngừng hoạt động. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định 388 – HĐBT chỉ mới được ở 10 Bộ, trong đó số doanh nghiệp hiện có là 1566, số đủ  điều kiện tồn tại là 1.096, số phải chuyển thể là 470. Về địa phương  đã tiến hành được 10 tỷ . Thành phần trong đó số doanh nghiệp hiện có 2464,  số đủ điều kiện  582, số phải chuyển thể 882, việc triển khai  thí điểm  cổ phần hoá   theo quyết định 202 – HĐBT chưa  tiến hành được bao nhiêu, do nhiều nguyên nhân khác nhau  làm ách tắc và chậm chạp.

* Từ thực trạng nói trên. Ta có thể thấy một số đặc trưng của xí nghiệp quốc doanh hiện nay  là :

– Sau một số khó khăn tất yếu, đã có vài doanh nghiệp trụ lại, vươn lên    góp phần  đáp ứng nhu cầu sản xuất và  đời sống xã hội và dân cư, dập tắt    những cơn sốt hàng hoá, góp phần bình ổn giá cả. Tuy vậy  số doanh nghiệp này chưa nhiều và  chưa vững chắc.

– Sự tồn tại thành phần kinh tế là cần thiết nhưng còn quá nhiều với ngân sách, chất lượng và hiệu quả rất thấp.

– Sự tăng trưởng và tồn tại hay hồi sinh của một số xí nghiệp về mặt      thực chất  vẫn còn lợi dụng kẽ hở của bao cấp Nhà nước, những  sơ hở của pháp luật.

– Quen sống trong cơ chế bao cấp nên thiếu độ nhạy cảm với các thông số biến động của thị trường.

Nhiều doanh nghiệp đã trở thành  nơi để cho người lợi dụng quốc doanh để  buôn lậu,  tham nhũng  làm thất thoát tài sản vốn liếng của Nhà nước.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

1.2 Kinh tế tập thể:

Kinh tế tập thể  dựa trên sở hữu tập thể về TLSX (trừ ruộng đất sở hữu  toàn  dân). Đây là thành phần kinh tế tuy trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất, tổ chức và  quản lý sản xuất còn thấp  hơn kinh tế quốc dân nhưng sản xuất với lượng hàng hoá  cung ứng  cho sản xuất và tiêu dùng đời sống xã hội. Trước biến động có tính bước ngoặt của nền kinh tế  chuyển sang kinh tế  thị trường và sự sụp đổ  của các nước  Liên xô và đông âu cũ, kinh tế thị trường   nước ta nhìn chung  bị giảm sút và biến dạng. Trong công nghiệp số HTX 32.034 (1988) chỉ  còn 9.660 (1991) m ức sản xuất năm 1991 so với năm trước giảm 47% nên giá trị sản lượng đóng cũng giảm dần từ chỗ chiếm 23,9% (năm 1988) giảm xuống còn 6,8% (năm 1991). Trong thương nghiệp và dịch vụ  tính đến năm 1989  toàn ngành có 21.094 điểm bán hàng tập thể, trong đó 14.992 HTX mua bán ở phường xã. Tính đến  năm 1991 hơn 75% số HTX giải thể. Số còn lại hoạt động cầm chừng. Từ chỗ toàn  ngành thương nghiệp dịch vụ chiếm 15% tổng mức bán lẻ trên t hị trường trước năm 1996 đến năm 1991 chỉ còn chiếm 1,8%. Trong nông nghiệp sự xuất hiện kinh tế nông hộ  với tư cách là đơn vị kinh tế cơ sở, thực hiện  rộng rãi cơ chế khoán, hộ gia đình  xã viên  là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất, bước đầu giải phóng  mức sản xuất khai thác tiềm năng  lao động và vốn của  nhân dân. Nhà nước tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ , bình đẳng phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và của xã viên. Phát triển  các hình thức hợp tác, đa dạng và mở rộng các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng (nông dân) ở những nơi  cần thiết và có điều kiện.

1.3 Kinh tế tư bản Nhà nước.

Hiện nay việc nhận thức thành phần kinh tế  còn rất hạn hẹp và rất đơn giản, mặc dù nó có vị trí rất quan trọng  trong cơ cấu kinh tế  những thành phần  ở nước ta. Thành phần kinh tế này rất phát triển, đa dạng. Nó bao gồm  các loại hình doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp . Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến tháng 7 năm 1992 đã có 461 dự án đầu tư đã được  cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 3.563 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh là chủ yếu, phổ biến chiếm 342 dự án và chiếm 55% tổng số vốn  đăng ký. Nếu tính theo địa  phương và miền thì các tỉnh phía nam chiếm 72,5% số dự án và 73,5% tổng số vốn  đăng ký cả nước. Còn số dự án  đầu tư và  đang có chiều hướng tăng lên, tính đến tháng 6  năm 1994 đã có 800 dự án với tổng số vốn  đăng ký  là 8,7 tỷ USD và dự báo  đến  năm 2000 có thể đạt 20 tỷ USD. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng  trong việc vận động tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ khả năng quản lý  của các nhà tư bản  vì lợi ích  của họ cũng như lợi ích của đất nước. Nhà nước cần phát triển  rộng rãi  các hình thức liên doanh, nhiều phương thức  góp vốn thích hợp  giữa kinh tế   Nhà nước với tư bản  tư nhân trong và ngoài nước, để tạo đà cho các doanh nghiệp Việt nam  phát triển, bằng khả năng  hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp  nước ngoài.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

1.4 Thành phần kinh tế tư nhân:

Trên thực tế kinh tế tư nhân ở nước  ta bao gồm: Các xí nghiệp tư nhân, hộ  tư nhân và cá thể tuy nhiên  việc phân loại   này cả lý luận và thực tiễn  còn đang có chỗ chưa thống nhất.  Nhưng mặc dù   khu vực kinh tế      này  mới được hồi sinh, nhưng từ năm  1989 đến nay đã phát triển nhanh và mạnh. Ví dụ: ngành công nghiệp chiếm 27,2% (1989) đến nay gần 30% trong tổng giá trị sản phẩm  công nghiệp; tính đến năm 1991 trong thương nghiệp thành phần kinh tế tư  nhân có 730 nghìn hộ  với 950 nghìn người kinh doanh chuyên nghiệp và 1,2 triệu người buôn bán nhỏ. Số hộ qui  mô vừa và nhỏ  chiếm đại bộ phận. Tính đến  giữa tháng 8 năm  1992 đã 571 hộ kinh doanh lớn được phép  chuyển thành  doanh nghiệp  tư nhân với số vốn là 114 tỷ đồng Việt Nam ; 412 hộ chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn 268 tỷ đồng Việt nam;  29 hộ chuyển thành công ty cổ  phần vơí số vốn 159 tỷ  đồng Việt Nam. Trên thị trường  xã hội,  thành phần kinh tế   này đua tranh với  thương nghiệp quốc doanh và tập thể nên đã chiếm lĩnh về bán lẻ và dịch vụ tiêu  dùng từ  60,8% (1989) lên 73,1% (1991). Theo sự phân loại, kinh tế nông hộ  cũng thuộc khu vực kinh tế này. Cho đến nay  có khoảng 10.402 hộ trong đó hộ sản xuất hàng hoá có mức thu nhập  từ 5 triệu đồng  trở lên  chiếm 22,4%; hộ tự cấp  tự túc chiếm 62,8%; hộ nghèo và quá nghèo  chiếm 14,8%. Khu vực  kinh tế tư nhân là  thành phần kinh tế phát triển mạnh. Cuối năm 1988 đến nửa năm 1990 kinh tế tư bản  tư nhân  phát triển khá rầm rộ. Cả nước  lúc đó có gần 500 xí nghiệp và công ty tư doanh. Thành phố Hồ Chí Minh có 235 doanh nghiệp tư nhân với số vốn đầu tư mỗi đơn vị  từ 100 triệu đồng trở lên. Đến tháng 7 năm 1992 sau hơn 1 năm  ban  hành luật  doanh nghiệp tư nhân cả nước có 785 xí nghiệp tư nhân với  tổng số vốn  đăng ký   424 tỷ đồng. Nhìn chung hiện nay khu vực kinh tế tư nhân hoạt động còn  gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về vốn, nguyên liệu, thị trường và qui chế. Hiện nay  thành phố có trên 40% doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn  về vốn; 8% gặp khó khăn về nguyên liệu; 7% về thị trường và 4% về qui chế. Các số liệu  tương ứng ở nông  thôn là 44%;  4%.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

1.5 Kinh tế cá thể tiểu chủ:

Thành phần kinh tế này có  thể kinh doanh như các tác nhân kinh tế  độc lập (như khái niệm “hộ gia đình” trong nền kinh tế thị trường) nhưng cũng có thể là các vệ tinh cho doanh nghiệp Nhà nước hay HTX, ở đây chúng ta thấy chính các   thành phần kinh tế cũng đan xen với nhau:  Về bản chất là kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhưng biểu hiện ra có thể là  các cơ sở      gia công cho doanh nghiệp hoặc các HTX. Kinh tế cá thể được khuyến khíchphát triển trong các ngành ở cả thành thị và nông thôn không bị  hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức. Thành phần kinh tế   này dựa trên  hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao động trực tiếp của bản thân  người lao động . Kinh tế cá thể có đặc điểm  kỹ thuật thủ công, năng suất lao động  thấp, sản xuất nhỏ phân tán  nhưng khi có chính sách kinh tế đúng kinh tế cá thể có khả  năng  đóng góp nhiều cho lợi ích xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm truyền thống. Tuy nhà nước cũng cần có  những biện pháp quản lý thị trường  chặt chẽ  để hạn chế và khắc phục  tính tự phát của nó.

2. Phương hướng giải pháp và triển vọng  của thành phần kinh tế

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chiến lược kinh  tế đến năm 2000, cơ cấu kinh tế  trong những năm 90 phải chuyển dịch rõ ràng. Và một trong những phương hướng  chuyển dịch đó là phải sắp xếp lại và đổi mới quản lý để  đảm bảo sự  phát triển  có hiệu quả của kinh tế quốc doanh, kinh tế  tập thể, khuyến khích mọi  loại hình kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao, tạo môi trường  hợp tác và cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế.( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)

Để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự  đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kinh tế quốc doanh và kinh tế  tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế lao động là chủ yếu.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Đảng ta đã khảng định: Xây dựng  nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với  tăng cường  vai trò quản lý của Nhà nước  theo định hướng XHCN. Tăng trưởng  kinh tế  gắn liền với  tiến bộ  và công bằng   xã hội,  giữ gìn và phát huy bản sắc  văn hoá dân tộc, bảo vệ  môi trường sinh thái. Cần tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô  của Nhà nước khai thác  mặt  tích cực và khắc phục, ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực  của cơ chế thị trường. Bảo đảm bình đẳng về quyền  và nghĩa vụ  từ pháp luật   của   mọi doanh nghiệp, cá nhân, không  phân biệt thành phần kinh tế( Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế)


Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài: Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần  kinh tế , dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương : còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liêu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/ZALO: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Contact Me on Zalo