Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản

Rate this post

Tải miễn phí bài Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Quản lý nhà nước được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Giải quyết tình huống khiếu nại và tiểu luận về cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản trên chuyên mục tiểu luận Quản lý nhà nước.

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Quản lý nhà nước nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562


I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

Bà Nguyễn Thị H sinh năm 1985, là con đầu trong một gia đình nông dân nghèo, có bốn anh chị em, ở xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Trong điều kiện hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, nhưng vì không muốn những đứa con của mình phải chịu thiệt thòi, ông bà đã quyết tâm cho các con ăn học hy vọng sau này có được việc làm ổn định. Với bản tính cần cù, chịu thương, chịu khó, chắt chiu tằn tiện, sự giúp đỡ của bà con xóm, làng và chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các chị em của bà Nguyễn Thị H vẫn được học hành đầy đủ.

 Tháng 7 năm 2007 bà Nguyễn Thị H tốt nghiệp Trường trung cấp Kinh tế Quảng Bình với tấm bằng trung cấp kinh tế chuyên ngành Kế toán doanh nghiệp, loại khá. Tuy nhiên, để tìm được việc làm phù hợp với khả năng và trình độ chuyên môn như bà H trong giai đoạn hiện nay không phải là điều dễ dàng. Sau thời gian dài tìm việc làm ở hầu khắp các doanh nghiệp trên địa bàn trong tỉnh, ngày 01/6/2009 bà Nguyễn Thị H được Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) A tiếp nhận vào làm việc (theo loại hợp đồng thời vụ 3 tháng/lần), công việc cụ thể làm nhân viên thống kê lao động tại Phân xưởng sản xuất Vật liệu xây dựng của Công ty. Sau 6 tháng làm việc với 2 lần ký hợp đồng thời vụ, thấy khả năng làm việc tốt, đức tính thật thà, năng động, sáng tạo trong công việc, Giám đốc Công ty đã ký hợp đồng có xác định thời hạn 2 năm với bà H từ ngày 01/12/2009 để đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi của cả hai phía.

Công ty TNHH A có trụ sở đóng tại phường Bắc Lý thành phố ĐH, được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2006 theo Luật Doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức gồm: Văn phòng Công ty, 2 đội thi công công trình và 1 phân xưởng sản xuất vật liệu xây dựng. Số lượng lao động sử dụng thường xuyên khoảng 76 người. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của Công ty: Xây dựng dân dụng, giao thông, thuỷ lợi; sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng.

 Đầu năm 2010 bà Nguyễn Thị H xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn C tại phường Bắc Lý thành phố ĐH. Sau thời gian mong mỏi đợi chờ, ngày 09/01/2011 bà H sinh cháu trai đầu lòng trong niềm vui sướng, hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ và gia đình hai bên.

Bà H nghỉ sinh 4 tháng theo chế độ, nhưng trong 4 tháng đó bà không nhận được tháng lương nào. Ông C một mình nuôi vợ trong thời gian vợ nghỉ sinh và con nhỏ chỉ bằng một suất lương của mình nên gia đình gặp nhiều khó khăn, túng thiếu về kinh tế, ông thường hay cáu gắt, bực bội mỗi khi nói đến vấn đề thu nhập, chi tiêu trong gia đình. Bởi vì, tại cơ quan nơi ông đang làm việc có cô nhân viên văn phòng nghỉ sinh con cùng thời điểm với vợ ông thì đã được Bảo hiểm xã hội thanh toán chế độ thai sản từ tháng 2/2011. Ông A đã liên lạc với Công ty TNHH A, nơi bà H đang làm việc đề nghị thanh toán chế độ thai sản cho vợ ông và được trả lời là Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH không giải quyết. Đến ngày 01/5/2011 thì bà H đi làm và hỏi lại cụ thể lý do tại sao không giải quyết chế độ thai sản thì Công ty TNHH A không trả lời được, đã thế cô cán bộ phụ trách bảo hiểm xã hội của Công ty còn nói: “qua Bảo hiểm xã hội mà hỏi”. Sự thiếu trách nhiệm của cán bộ công ty đã làm cho bà H hết sức bất bình. Ngày 10/5/2011, bà H viết đơn khiếu nại gửi Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH, với nội dung như sau:

Kính gửi: Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH

Tôi tên Nguyễn Thị H xin trình bày với quý cơ quan sự việc như sau:

Tôi đang làm việc tại Công ty TNHH A, ngày 01/01/2011 tôi nghỉ sinh, sau thời gian 4 tháng được nghỉ theo quy định, đến ngày 01/5/2011 tôi đã đi làm. Trước khi sinh con tôi có thời gian công tác tại Công ty TNHH A và tham gia bảo hiểm xã hội là 01 năm 01 tháng (hàng tháng Công ty đều khấu trừ tiền đóng bảo hiểm xã hội vào tiền lương của tôi). Chiếu theo Luật Bảo hiểm xã hội thì tôi đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản như quy định.

Để đảm bảo quyền lợi cho bản thân và gia đình, tôi làm đơn này đề nghị Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH giải quyết chế độ thai sản cho tôi. Tôi nghĩ rằng Công ty TNHH A phải có trách nhiệm thanh toán chế độ thai sản cho tôi nhưng khi hỏi cán bộ phụ trách bảo hiểm của Công ty thì họ trả lời là Bảo hiểm thành phố ĐH không giải quyết, và cho đó là trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội.

Vậy tôi viết đơn này yêu cầu Bảo hiểm xã hội trả lời lý do tại sao không thanh toán chế độ thai sản cho tôi.

Là cơ quan nhà nước, chịu trách nhiệm các vấn đề về chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, tôi yêu cầu Bảo hiểm xã hội thành phố phải trả lời trong thời gian 30 ngày để tôi còn có thời gian khiếu kiện lên cấp cao hơn khi tôi thấy chưa thoả đáng.  

Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị H gửi, cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH đã khẩn trương rà soát hồ sơ tham gia Bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A và thấy rằng: Danh sách tham gia bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A chưa có tên bà Nguyễn Thị H, cán bộ chính sách cho biết hồ sơ đề nghị thanh toán thai sản cho bà Nguyễn Thị H của công ty TNHH A chuyển sang ngày 01/02/2011, nhưng cán bộ chính sách Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH trả lại, lý do là Công ty TNHH A chưa báo tăng lao động bà Nguyễn Thị H và Công ty còn nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2010 vẫn chưa chuyển trả. Với nguyên tắc có đóng góp thì mới có thụ hưởng nên bảo hiểm xã hội không thanh toán. (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

Theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động: người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có đủ từ 3 tháng trở lên; cán bộ công chức, viên chức…và tại Điều 4 quy định các chế độ người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng bao gồm: Chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 91 và Điều 92 của Luật Bảo hiểm xã hội và hàng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội.

Điều 141 Bộ luật Lao động quy định, bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên. Ở những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất.

Vấn đề đặt ra là: Người lao động đã hội đủ các điều kiện thì phải được đóng bảo hiểm xã hội và được hưởng các chế độ theo quy định, còn cơ quan, đơn vị, cá nhân nào làm sai thì phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật.  Bảo đảm cho người lao động được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình theo quy định, yên tâm công tác, tạo năng suất lao động cao hơn, giữ vững lòng tin đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

 Đối chiếu với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động thì bà Nguyễn Thị H thuộc diện tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc và được hưởng các quyền lợi về chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc. 

II. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản

Từ sự việc Công ty TNHH A không thực hiện đúng các quy định của pháp luật lao động, không đăng ký tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn Thị H, nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2010, không thanh toán chế độ thai sản cho bà H khi bà nghỉ sinh, dẫn đến việc bà H phải khiếu nại lên Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH, theo tôi có các nguyên nhân và hậu quả sau đây:

1. Nguyên nhân

1.1 Nguyên nhân chủ quan

* Đối với bà H chưa tự trang bị cho mình kiến thức cơ bản về pháp luật lao động, thiếu hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong quá trình tham gia lao động. Ở đây, bà H gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Công ty TNHH A, chỉ biết mình được nhận vào làm việc là may mắn rồi nên không dám đề đạt nguyện vọng gì thêm, kể cả trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

* Đối với công ty TNHH

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

– Giám đốc Công ty chưa nhận thức đầy đủ các điều kiện ràng buộc hoạt động của một doanh nghiệp và những yếu tố xã hội có tác động thúc đẩy sản xuất phát triển trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp mới chỉ chú trọng đầu tư sản xuất kinh doanh, chạy theo lợi nhuận, chưa quan tâm đến quyền lợi của người lao động, chưa nhận thấy lực lượng lao động là một trong những yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

– Không báo tăng tham gia bảo hiểm cho người lao động và đóng nộp Bảo hiểm xã hội theo đúng quy định, xem đây là một trong những biện pháp tình thế để ổn định tài chính doanh nghiệp phục vụ sản xuất.

* Đối với Tổ chức công đoàn của Công ty

Chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là tuyên truyền giáo dục,

nâng cao nhận thức về pháp luật cho người lao động, đặc biệt là các quyền và nghĩa vụ của người lao động trong doanh nghiệp; chưa kịp thời nắm bắt tình hình và có biện pháp bảo vệ người lao động khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm pham. 

* Đối với Bảo hiểm Xã hội thành phố ĐH

 Chưa kịp thời nắm số lao động tăng của đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, để buộc Công ty THHH A phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho những người lao động theo quy định, chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc thu nợ tiền bảo hiểm xã hội, để đơn vị nợ đọng lâu ngày, gây khó khăn trở ngại cho quá trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, làm ảnh hưởng quyền lợi cho người lao động.

1.2 Nguyên nhân khách quan

Công tác quản lý nhà nước ở các cấp đối với Công ty TNHH A nói riêng và các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung còn buông lỏng, thiếu sự đồng bộ, công tác thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng có nơi, có lúc chưa kiên quyết, còn “nhẹ tay” khi xử lý những vi phạm của doanh nghiệp.

Một số văn bản quy phạp pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về chế độ bảo hiểm xã hội còn bất cập, chưa chặt chẽ, tính hiệu lực chưa cao, cơ quan bảo hiểm xã hội được giao tránh nhiệm quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lao động, không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

– Các biện pháp để thu nợ bảo hiểm xã hội đã được quy định, như bắt buộc nộp lãi đối với các đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ mạnh vì họ sẵn sàng nộp lãi còn hơn phải vay ngân hàng để nộp bảo hiểm xã hội. Nộp lãi bảo hiểm xã hội không cần làm các thủ tục phức tạp và lãi suất thấp, trong khi vay ngân hàng cần phải có các thủ tục thế chấp, phương án sản xuất…

– Công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể có tích cực, nhưng chưa sâu rộng, các cơ quan thông tin đại chúng chưa thực sự xem công tác này là trách nhiệm của mình. Về phía cơ quan Bảo hiểm xã hội mặc dù có tích cực trong công tác, song chưa có biện pháp hữu hiệu để đạt kết quả cao, một số tổ chức xã hội chưa tích cực, năng động trong công tác này.

– Người lao động rất khó khăn tìm được việc làm, họ rất ngại khi phải khiếu nại hoặc đề xuất yêu cầu với người sử dụng lao động vì đó cũng là một trong những lý do để dẫn đến mất việc làm như hiện nay. Trong khi chúng ta vẫn chưa có được một thị trường việc làm để người lao động có điều kiện lựa chọn và bình đẳng khi tham gia ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động theo đúng nghĩa của nó. Đây cũng là một trong những nguyên nhân để các doanh nghiệp thường xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động mà người lao động không dám lên tiếng.

2. Hậu quả

– Về cá nhân bà H và gia đình: Không được giải quyết chế độ thai sản kịp thời nên đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của gia đình, đặc biệt là trong giai đoạn giá cả sinh hoạt tăng cao như hiện nay.

– Về mặt quản lý Nhà nước: Việc thực hiện pháp luật bị hạn chế, làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Chưa bảo đảm sự công bằng giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo dư luận không tốt trong nhân dân.

– Về mặt xã hội: Một bộ phận người lao động qua tình huống này sẽ chưa thực sự tin tưởng vào cán bộ, công chức, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện.

– Uy tín lãnh đạo Công ty, tổ chức Công đoàn của doanh nghiệp bị giảm sút, người lao động mất niềm tin, không yên tâm công tác, năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động giảm, ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động.

III. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Không vì mục đích kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế cần phải tuân thủ và áp dụng đúng quy định của pháp luật, nhằm mục đích an sinh và an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội chứa đựng nhiều ý nghĩa lớn lao, đó là tính nhân đạo, tính nhân văn của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy mục tiêu xử lý cần đạt được như sau:

Thứ nhất, bà Nguyễn Thị H phải được hưởng chế độ thai sản và các quyền lợi khác của người lao động theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và  Bộ luật Lao động. Xây dựng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp ngày càng gắn bó, trách nhiệm, tạo niềm tin cho người lao động yên tâm công tác, phát huy hết khả năng của mình trong công việc.

Thứ hai, Công ty TNHH A phải kịp thời báo tăng số lượng người lao động và trích nộp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, đảm bảo kỷ cương phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật, khẳng định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội là hoàn toàn đúng đắn, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

Thứ ba, bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm xã hội, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong quá trình sản xuất, kinh doanh. (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

Thứ tư, nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình đóng và thụ hưởng bảo hiểm. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức, viên chức, cơ quan Bảo hiểm xã hội trong quá trình thực thi công vụ.

Việc tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không chỉ là quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, của các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Vì vậy, thực hiện xã hội hoá trong công tác bảo hiểm xã hội là việc làm cần thiết và phù hợp với xu thế hiện nay.

IV. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

Qua phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống, để đạt được các mục tiêu đã xác định tôi đề xuất các phương án giải quyết và lựa chọn phương án giải quyết như sau:

1. Xây dựng các phương án giải quyết tình huống

* Phương án 1: Công ty TNHH A chủ động thanh toán chế độ thai sản cho bà H. Sau đó làm việc với Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH để quyết toán chế độ thai sản của bà H cho Công ty TNHH A nhằm giảm bớt phần nào khó khăn trong cuộc sống cho gia đình bà M.

Bởi vì theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội và công văn số 17/BHXH – THU ngày 02/01/2009 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Bình hướng dẫn:

“Kể từ ngày 01/01/2009 trở đi người sử dụng lao động giữ lại 2% số phải nộp để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện huởng chế độ (ốm đau và thai sản) theo quy định. Hàng quý hoặc hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm quyết toán kinh phí này với cơ quan Bảo hiểm xã hội theo quy định.

Kể từ tháng 01/2009, khi quyết toán số tiền đóng BHXH, BHYT của các đơn vị, cơ quan BHXH sẽ trừ lại 2% số phải nộp, nếu đơn vị nào hàng tháng không giữ lại 2% để chi trả chế độ ốm đau, thai sản thì phải có công văn đề nghị gửi cơ quan BHXH các huyện, thành phố, để có cơ sở giải quyết”.

XEM THÊM 99+==> LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

– Ưu điểm:

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt, đảm bảo quyền lợi cho bà Nguyễn Thị H, lấy lại lòng tin cho người lao động, tránh được những dư luận không có lợi cho công ty.

– Nhược điểm:

Gây ra sự ngộ nhận về tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho người lao động không tự mình quan tâm đến quyền lợi của mình và đi đến ỷ lại, họ nghĩ rằng chỉ cần viết đơn là giải quyết ngay, chưa đảm bảo được tính công bằng và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

Số tiền nợ bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A vẫn còn, ảnh hưởng đến nguồn thu bảo hiểm, tạo tiền lệ xấu trong quá trình gải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, làm mất lòng tin vào tính ưu việt của xã hội ta cũng như chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước.

* Phương án 2: Bảo hiểm xã hội chủ động đứng ra làm đơn vị triệu tập viên, mời bà Nguyễn Thị H, Công ty TNHH A, Công đoàn Công ty TNHH A đến cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót, trách nhiệm thuộc về ai. Từ đó yêu cầu Công ty TNHH A phải tiến hành làm thủ tục báo tăng kịp thời cho bà Nguyễn thị H, truy nộp bảo hiểm xã hội, để giải quyết chế độ thai sản cho bà H, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Cán bộ chính sách tính toán số tiền chế độ thai sản cho bà H với cách tính được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội như sau:

Bà M có hệ số lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,86.

Mức lương tối thiểu chung được áp dụng để tính là: 730.000 đồng (thời điểm bà H nghỉ sinh con).

Với 4 tháng nghỉ sinh hưởng chế độ thai sản (quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội: “Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản là 4 tháng nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường”. bà H được hưởng số tiền:

1,86 x 730.000đ x 4 tháng = 5.431.200 đồng

Bà H được hưởng thêm 2 tháng lương tối thiểu trợ cấp một lần khi sinh (quy định tại Điều 34, Luật Bảo hiểm xã hội: “Lao động động nữ sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con”)

2 tháng x 730.000đ  = 1.460.000 đồng.

Tổng cộng số tiền bà H được hưởng là:

5.430.200đ + 1.460.000đ = 6.891.200 đồng.

– Ưu điểm:

Đảm bảo tính pháp chế, tính công bằng, tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ trong đơn vị sử dụng lao động được cải thiện, với mục tiêu “tất cả vì quyền lợi người lao động”.

Đảm bảo hợp tình, hợp lý, thu hút được đối tượng tham gia bảo hiểm, góp phần đẩy nhanh công tác xã hội hoá bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn, việc bổ sung, sửa đổi một số quy định trong quản lý, trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động.

– Nhược điểm: (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

Cán bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội phải tập trung đầu tư thời gian để xử lý, gia đình bà Nguyễn Thị H và người lao động trong Công ty có thể ngộ nhận, trách nhiệm sai sót thuộc về cơ quan Bảo hiểm xã hội.

*Phương án 3:

Yêu cầu Công ty TNHH A trích kinh phí thường xuyên, giải quyết trợ cấp khó khăn cho gia đình bà Nguyễn Thị H với số tiền  bằng tiền chế độ thai sản.

– Ưu điểm:

Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt cho gia đình bà Nguyễn Thị H.

– Nhược điểm:

Công ty TNHH A và Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không gắn trách nhiệm của Công ty với quyền lợi lâu dài của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (thời gian và mức đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để giải quyết các chế độ khác cho người lao động sau này như hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động…), tính khả thi không cao vì phải phụ thuộc vào sự tự giác của Công ty TNHH A.

2. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống

Quá trình phân tích, đối chiếu với mục tiêu đã xác định với ba phương án đã trình bày ở trên, phương án nào cũng có mặt ưu và nhược. Tuy nhiên, trong trường hợp này tôi lựa chọn phương án 2 là phương án để giải quyết, vì trong các phương án đã xây dựng, nó là phương án tối ưu. Thực hiện phương án này sẽ đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội và các đơn vị sử dụng lao động, với mục tiêu “tất cả vì quyền lợi người lao động”, vừa đảm bảo hợp lý, hợp tình, thu hút được đối tượng tham gia, góp phần đẩy nhanh công tác xã hội hóa bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn về việc bổ sung sửa đổi một số quy định trong quản lý, trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động. (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN LỰA CHỌN

Để thực hiện tốt phương án đã được lựa chọn, đòi hỏi sự phối hợp thực hiện giữa người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội một cách khoa học chặt chẽ, đầy đủ thủ tục, theo đúng trình tự các bước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động được giải quyết đúng, đủ và kịp thời.

1. Các bước tiến hành cụ thể

Bước thứ nhất:

Bảo hiểm xã hội thành phố thông báo mời Công ty TNHH A, bà Nguyễn Thị H và đại diện tổ chức công đoàn công ty tới cơ quan Bảo hiểm xã hội để làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót của cá nhân, tổ chức có liên quan đến sự việc, chỉ rõ hậu quả mà Công ty phải gánh chịu nếu vẫn cố tình không báo tăng và đóng bảo hiểm cho người lao động theo đúng quy định, trên tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Thống nhất cách thức, trình tự các bước, thời gian thực hiện. Yêu cầu các bên có liên quan phải cam kết thực hiện nghiêm túc.

XEM THÊM 999+==> DANH SÁCH TIỂU LUẬN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

 Bước thứ hai:

– Trách nhiệm của bà H: Phải gặp trực tiếp cán bộ phụ trách các chế độ bảo hiểm xã hội của Công ty TNHH A, thực hiện đối chiếu các hồ sơ, hợp đồng lao động đầy đủ, đồng thời đề nghị cán bộ phụ trách tiến hành làm thủ tục báo tăng  bảo hiểm xã hội cho bà kịp thời, đúng quy định.

– Trách nhiệm của Công ty TNHH A: Tiến hành cân đối tài chính, tìm nguồn ưu tiên truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội đầy đủ, tiến hành làm các thủ tục để báo tăng lao động và thanh toán chế độ thai sản cho bà H, đồng thời rà soát lại trong Công ty TNHH A còn chế độ nào của người lao động từ trước đến nay chưa thanh toán, khẩn trương xem xét, giải quyết.

– Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH: Khẩn trương phối hợp

và đốc thúc Công ty TNHH A tiến hành nhanh chóng các thủ tục như báo tăng

lao động, truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2010. Tiến hành thanh toán kịp thời chế độ thai sản cho bà H và những trường hợp khác trong Công ty (nếu có). (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

Bước thứ ba:

 Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH hướng dẫn Công ty TNHH A thực hiện báo tăng theo mẫu 02a-TBH. Tiến hành đối chiếu tiền chênh lệch do nợ bảo hiểm xã hội quý III và quý IV/2010. Hướng dẫn Công ty lập danh sách truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc theo mẫu số 03-TBH.

Công ty TNHH A sau khi hoàn tất xong các thủ tục, tiến hành truy nộp số tiền nợ đóng bảo hiểm xã hội vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội của cơ quan bảo hiểm xã hội, qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố ĐH hoặc tài khoản tại kho bạc Nhà nước thành phố ĐH.

Bước thứ tư:

Bảo hiểm xã hội thành phố ĐH sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ và giấy báo đã chuyển vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội, tiến hành kiểm tra duyệt danh sách đề nghị hưởng chế độ thai sản theo mẫu số C67a – HD để chi trả cho đối tượng kịp thời, đúng quy định hiện hành, đảm bảo quyền lợi cho bà Nguyễn Thị H, góp phần giảm bớt khó khăn cho gia đình.

Bước thứ năm:

Bảo hiểm xã hội tổ chức họp kiểm điểm, rút kinh nghiệp, đề xuất biện pháp tăng cường quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn.

Công ty TNHH A tổ chức cuộc họp kiểm điểm việc không làm thủ tục báo tăng kịp thời cho người lao động, không trích nộp bảo hiểm kịp thời theo quy định. Lãnh đạo Công ty tìm mọi biện pháp đẩy mạnh sản suất kinh doanh, ổn định tình hình tài chính doanh nghiệp, bảo đảm đủ các nguồn chi theo đúng quy định.

2. Biểu đồ công việc theo thời gian

TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện Cá nhân hay tổ chức đảm nhận Ghi chú
Bắt đầu Kết thúc
1 Mời Công ty TNHH A, đại diện tổ chức công đoàn, bà H đến BHXH huyện để làm việc 21/6/2011 23/6/2011 BHXH; Công ty TNHH A, đại diện tổ chức công đoàn, bà H  
2 Bà H gặp trực tiếp cán bộ phụ trách theo dõi BHXH của Công ty TNHH A 24/6/2011 24/6/2011 Bà H; cán bộ theo dõi các chế độ bảo hiểm xã hội  
3 Làm thủ tục báo tăng cho bà H, tiến hành đối chiếu để truy nộp tiền nợ BHXH 27/6/2011 27/6/2011 Cán bộ Công ty TNHH A; cán bộ BHXH  
4 Chuyển tiền vào tài khoản thu BHXH của BHXH thành phố ĐH, báo BHXH đã chuyển tiền, nộp danh sách đề nghị hưởng thai sản C67a-HD 28/6/2011 28/6/2011 Cán bộ Công ty TNHH A  
5 Duyệt DS, chuyển tiền thai sản qua TK và báo cho Công ty TNHH A 29/6/2011 29/6/2011 Cán bộ chính sách, kế toán BHXH  
6 Công ty nhận tiền và trả cho bà H 30/6/2011 30/6/2011 Cán bộ Công ty TNHH A  
7  Họp kiểm điểm, rút kinh nghiệm 01/7/2009 01/7/2011 BHXH TP ĐH; Công ty TNHH A  

VI. KIẾN NGHỊ Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản

Qua tình huống trên để thực hiện tốt việc quản lý Nhà nước về công tác bảo hiểm xã hội, bảo đảm nguồn thu vào quỹ bảo hiểm xã hội đúng, đủ, kịp thời, đồng thời giải quyết đầy đủ quyền lợi cho người lao động, tôi có một số kiến nghị như sau:

1.  Đối với cơ quan nhà nước ở Trung ương

– Luật bảo hiểm xã hội được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006; có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Nghị định

 152/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và một số văn bản hướng dẫn khác đã đánh dấu một bước tiến trong quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực an sinh, an toàn xã hội. Tuy nhiên, tình trạng không đăng ký tham gia bảo hiểm cho người lao động khi có đủ điều kiện và nợ đọng bảo hiểm xã hội vẫn còn xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp, trên phạm vi cả nước. Hiện nay, pháp luật có quy định thêm biện pháp mới là tính tiền lãi chậm nộp cho các đơn vị nợ đọng bảo hiểm, tuy nhiên biện pháp này tỏ ra không mấy hiệu quả trên thực tế. Do vậy, trước mắt các cơ quan nhà nước cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước về lao động. Còn về lâu dài cần phải có cơ chế hoàn thiện đồng bộ và hiệu quả trong việc quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội, cần xem xét theo hướng giao trách nhiệm thu bảo hiểm xã hội cho cơ quan thuế, tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ, nguồn thu và kịp thời xử lý các đối tượng vi phạm. (cơ quan bảo hiểm xã hội có nhiệm vụ quản lý nguồn thu bảo hiểm nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực lao động và bảo hiểm xã hội, không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực này). (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

2.  Đối với chính quyền địa phương

– Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, quán triệt thực hiện sâu rộng, nghiêm túc chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn hiện nay. Xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của tất cả các ban, ngành, tổ chức, đoàn thể … và của toàn xã hội.

– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bảo hiểm xã hội, và Luật Lao động cho chủ doanh nghiệp, người lao và đại diện người lao động để họ nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc tham gia bảo hiểm xã hội, từ đó tự giác thực hiện một cách có hiệu quả.

  1. Đối với Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố

Đề xuất chính quyền các cấp mở các hội nghị liên ngành bao gồm: ngành Lao động Thương binh và Xã hội; Bảo hiểm xã hội; Liên đoàn lao động; Thanh tra chuyên ngành, cùng nhau bàn và đi đến thống nhất các chương trình, kế hoạch hành động, tiến hành thanh tra, kiểm tra các đơn vị có sử dụng lao động.

 Xử lý dứt khoát, khen thưởng các đơn vị hoàn thành tốt nhiêm vụ đóng bảo hiểm xã hội.

Tăng cường điểm các đơn vị nợ đọng, trốn nộp bảo hiểm xã hội, tăng cường kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Gắn việc thực hiện bảo hiểm xã hội với công tác thi đua, khen thưởng ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, kịp thời tuyên dương bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong toàn ngành, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thi hành công vụ, theo dõi, nắm chắc tình hình tham gia bảo hiểm xã hội của các đơn vị trên địa bàn, có phương án xử lý kịp thời các tình huống. (Tiểu luận: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản)

4. Đối với tổ chức Công đoàn và người lao động trong doanh nghiệp

Nâng cao khả năng, kỹ năng hoạt động của cán bộ công đoàn, kịp thời nắm bắt thông tin về bảo hiểm xã hội của đơn vị, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội khi bị xâm phạm.

Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội cho người lao động. Người lao động trong doanh nghiệp phải tích cực tham gia hoạt động công đoàn, chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.  


Trên đây là tiểu luận môn Quản lý nhà nước đề tài: Giải quyết tình huống khiếu nại cơ quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện đúng chế độ thai sản, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học chuyên viên: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE

Contact Me on Zalo