Tiểu luận: Giả thuyết “bộ ba bất khả khi, mất cân bằng toàn cầu” trong kỷ nguyên sự là đề tài tiểu luận ngành Tài chính được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, còn nhiều bài Tiểu luận: Giả thuyết “bộ ba bất khả khi” trong kỷ nguyên sự
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562
Chúng tôi đã phát triển 1 phương pháp cho phép ta mô tả theo hướng trực giác những chọn lựa mà các quốc gia đã thực hiện theo bộ ba bất khả thi trong thời kỳ hậu Bretton-woods
Bài viết này bàn về những khía cạnh tích cực của bộ ba bất khả thi, phác thảo những hệ số đo lường mới để đo lường những biến động của tỷ giá , sự độc lập của tiền tệ, tự do hóa tài chính và xem xét sự phát triển đáng kể của nguồn dự trữ tích lũy quốc tế.
Những điều nêu trên bắt đầu được thực hiện với sự ra đời của chỉ số bộ ba.
- Cụ thể là từ sau những đầu thập niên 1990 , các quốc gia công nghiệp hóa tăng dần mở rộng tài chính nhưng lại giảm chừng mức độ độc lập về tiền tệ đồng thời tăng sự bình ổn tỷ giá. Tiến trình này phát triển lên đến mức cực điểm vào cuối thập niên 1990 với sự ra đời của Euro.
- Ngược lại, các quốc gia đang phát triển ưu tiên chính cho việc bình ổn tỷ giá cho đến năm 1990, mặc dù nhiều quốc gia đã theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi từ đầu những năm 1970 trở về sau. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
- Kể từ năm 2000, các phương pháp đo lường các tham số Bộ ba bất khả thi đã hội tụ về những mức độ trung gian mô tả sự linh động và quản lí, sử dụng dự trữ quốc gia có thể đo lường được như là BUFFER vì vậy duy trì được sự tự quản của tiền tệ.
Sử dụng những chỉ số này, chúng ta kiểm tra được tính tuyến tính của ba khái niệm trong Bộ ba bất khả thi:
- Độc lập của tiền tệ.
- Tỷ giá hối đoái cố định.
+ Tự do hóa dòng vốn.
Chúng tôi khẳng định rằng tổng trọng số của các tham số trong chính sách bộ ba là 1 hằng số, điều này có nghĩa là sự tăng lên của 1 biến trong bộ ba sẽ bù trừ bằng tổng trọng số của 2 biến còn lại.
-
Giới thiệu
Một đóng góp cơ bản của hệ thống Mundell-Fleming là lý thuyết bộ ba bất khả thi hay còn gọi là TRILEMMA.
Lý thuyết này chỉ ra rằng một quốc gia có thể lựa chọn cùng một lúc hai nhưng không phải là cả ba mục tiêu sau đây: Chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự do hóa dòng vốn.
XEM THÊM ==> LỜI MỞ ĐẦU TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Mỗi cạnh của tam giác thể hiện chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự do hóa dòng vốn diễn tả một mục tiêu mong đợi có thể thực hiện được trong tương lai, mà không có khả năng thực hiện đồng thời cả ba mục tiêu này.
Đỉnh trên cùng của tam giác được ký hiệu “thị trường vốn đóng”_là sự kết hợp giữa chính sách tiền tệ độc lập và cố định tỷ giá nhưng không tự do hóa dòng vốn, đây là sự lựa chọn tối ưu của những quốc gia đang phát triển giữa cuối những năm 1980.
Hơn 20 năm qua, những quốc gia đang phát triển đã lựa chọn tăng tự do hóa dòng vốn. Lý thuyết bộ ba bất khả thi ngụ ý rằng, một đất nước đi theo con đường này thì phải lựa chọn:
- Hoặc là từ bỏ chế độ cố định tỷ giá nếu quốc gia đó muốn bảo vệ chính sách tiền tệ độc lập.
- Hoặc là từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập nếu quốc gia đó muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định.
Mục dích của bài nghiên cứu này là phác họa một phương pháp mô tả và đánh giá một cách dễ dàng và trực quan những lựa chọn của các quốc gia có liên quan đến bộ ba bất khả thi trong suốt thời kỳ Bretton-Woods .
Phần đầu của nghiên cứu này giới thiệu “những chỉ số của bộ ba bất khả thi” mà các chỉ số này giúp đo lường mức tiêu chuẩn đạt được trong 3 mục tiêu của bộ ba bất khả thi: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự do hóa dòng vốn. Những chỉ số này cho phép chúng ta thấy rõ cấu trúc vốn quốc tế. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Thứ hai, sử dụng những chỉ số này tìm ra những khía cạnh tích cực của bộ ba bất khả thi và xem xét những cú sốc kinh tế bên ngoài (như là những thay đổi trong cấu trúc vốn toàn cầu_ví dụ, sự sụp đổ của hệ thống Bretton-Woods _và khủng hoảng tài chính theo diện rộng_ví dụ, khủng hoảng nợ ở Mexico và khủng hoảng tài chính ở châu Á ) ảnh hưởng như thế nào đến các mục tiêu của quốc gia trong bộ ba bất khả thi.
Cuối cùng, chúng ta xem xét liệu sự ràng buộc dựa vào bộ ba bất khả thi có mối liên kết nào với nhau hay không. Bằng cách, sử dụng một hàm tuyết tính đơn giản để liên kết 3 chỉ số này lại, chúng ta kiểm tra liệu sự kết hợp tuyến tính của 3 chỉ số này có hình thành một hằng số hay không? Nếu đúng như vậy, thì khái niệm quốc gia có thể theo đuổi 2 trong 3 mục tiêu là đúng, và cũng có nghĩa là nếu tăng một biến này thì phải giảm tỷ trọng tương ứng của 2 biến còn lại.
Chúng ta bắt đầu quan sát hơn 2 thập kỷ qua, một số lớn những quốc gia đang phát triển đã lựa chọn tỷ giá hỗn hợp (lai). Ví dụ, điều hành chính sách thả nổi bằng cách gia tăng dự trữ ngoại hối (IR). Mặc dù gia tăng thả nổi tỷ giá, thì tỷ số IR/GDP vẫn tăng một cách đáng kể, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tại quốc gia Đông Á. Trên thực tế, chỉ số IR/GDP đã tăng ở những quốc gia có thị trường mới nổi. Những con số này đang dao động: dự trữ ngoại hối tăng từ 1000 tỷ USD lên hơn 5000 tỷ USD từ năm 1990 đến năm 2006. Tổng mức dự trữ ngoại hối thì không ổn định trong khi IR/GDP của những nước công nghiệp thì tương đối ổn định ở mức xấp xỉ 4%, trong khi tỷ số này của các quốc gia đang phát triển dao động trong khoảng từ 5% – 27%. Ngày nay, khoảng ¾ dự trữ ngoại hối là của các quốc gia đang phát triển, hầu hết là ở châu Á.
Dự trữ ngoại hối ở các quốc gia châu Á tăng từ 5% năm 1980 lên 37% năm 2006 (châu Á chiếm 32%, chưa kể Trung Quốc). Sự thay đổi đáng kể nhất là tại Trung quốc, tỷ lệ IR/GDP tăng từ 1% năm 1980 lên 41% năm 2006 (và đang tăng dần lên 50% trước năm 2008). Nhiều nghiên cứu theo chủ nghĩa kinh nghiệm yêu cầu có một vài thay đổi trong tỷ lệ dự trữ ngoại hối. Một sự thay đổi lớn vào năm 1990 có liên quan đến quản lý dự trữ ngoại hối của các quốc gia đang phát triển. Tỷ số IR/GDP đã tăng và tăng một cách chóng mặt sau cuộc khủng hoảng Đông Á những năm 1997 – 1998, nhưng rõ nét nhất là vào năm 2000. Một sự thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại hối diễn ra vào đầu những năm 2000, hầu hết là do ảnh hưởng của việc tăng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc.
XEM THÊM ==> Dịch vụ viết thuê tiêu luận trọn gói giá rẻ
Toàn cầu hóa thị trường tài chính là tất yếu trong điều kiện hội nhập tài chính đang phát triển ở các nhóm quốc gia. Trong khi mô hình gốc của bộ ba bất khả thi ít đề cấp đến vai trò của dự trữ thì xu hướng hiện tại xem tích lũy phải liên quan chặt chẽ với sự thay đổi mô hình bộ ba bất khả thi trong những quốc gia đang phát triển. Nghiên cứu ban đầu tập trung vào vai trò của dự trữ toàn cầu như là bước đệm để thực hiện chế độ tỷ giá có điều chỉnh hay là thả nổi có kiểm soát. Mô hình hoạt động như vậy giới hạn khả năng giải thích việc tăng dự dữ ngoại hối bởi lẽ việc linh hoạt hơn trong tỷ giá hối đoái những thập niên gần đây làm giảm dự trữ ngoại hối, ngược lại với xu hướng nêu trên. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Nghiên cứu gần đây tập trung những hướng bất lợi của việc hội nhập tài chính sâu hơn ở những quốc gia đang phát triển.
- Mở cửa thị trường tài chính sâu như vậy sẽ làm cho dòng vốn trong ngắn hạn dễ thay đổi (gọi là “tiền nóng”) tùy thuộc vào mức độ đảo chiều và chấm dứt đột ngột (xem Calvo, 1998). Kinh nghiệm cho rằng, dự trữ toàn cầu có thể giảm khả năng chấm dứt đột ngột của dòng tiền và những hậu quả nghiệm trọng có thể xảy ra khi đó.
Aizenman và Lee (2007), đã liên kết sự gia tăng mạnh mẽ của dự trữ toàn cầu và mở cửa thị trường tài chính ngày càng sâu của các quốc gia đang phát triển và tìm ra bằng chứng việc tăng dự trữ ngoại hối như là một cách tự bảo vệ việc chấm dứt đội ngột của dòng vốn vào.
Phân tích thực nghiệm trên 100 quốc gia từ năm 1975 – 2004, Cheung và Ito
(2007) nhận thấy rằng chỉ có mở cửa thị trường ngoại thương mới là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố được đưa ra đánh giá. Tuy nhiên, giải thích dựa vào yếu tố này đã không còn đúng theo thời gian. Ngược lại, ý nghĩa giải thích của các yếu tố khác lại có ý nghĩa hơn.
Tầm quan trọng của hội nhập tài chính có mối liên hệ giữa thay đổi cấu trúc bộ ba bất khả thi và mức dự trữ ngoại hối. Thật vậy, theo Obtfield (2008), khoản vay nợ trong nước có thể chuyển thành nợ ngoại tệ (M2). Mở cửa tài chính, có khả năng thu hút ngoại tệ thông qua thị trường nợ, và chính sách tỷ giá hối đoái sẽ đưa ra những dự đoán về mức dự trữ.
Chúng ta bắt đầu xây dựng phương pháp trực quan và dễ dàng để tổng hợp những khuynh hướng nêu trên bằng “biểu đồ hình kim cương” mà trên biểu đồ này, cộng thêm vào ba yếu tố của TRILEMMA.
Những con số này thông thường là trong khoảng từ 0 đến 1. Mô hình của mỗi quốc gia được tổng hợp lại trong một “hình thể tổng quát” mà 4 cạnh biểu hiện: Chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định, IR/GDP và tự do hóa dòng vốn. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Một thông điệp rút ra từ lý thuyết bộ ba bất khả thi là thiếu những công cụ đo lường. Những nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với việc đánh đổi giữa các mục tiêu trong bộ ba bất khả thi: gia tăng giá trị của một biến trong bộ ba bất khả thi (chẳng hạn tăng tự do hóa dòng vốn) thì sẽ kéo theo sự sụt giảm giá trị của hai biến còn lại
(giảm cố định tỷ giá hay chính sách tiền tệ độc lập hoặc là cả hai). Vì vậy, như chúng ta đã biết, giá trị của sự đánh đổi giữa ba biến không được kiểm chứng chính xác. Một vấn đề đáng lưu ý nữa là mô hình bộ ba bất khả thi có bị giới hạn bởi sự liên kết giữa 3 biến hay không.
Chúng ta kết thúc vấn đề này bằng việc áp dụng hàm hồi quy đơn giản đối với bộ ba bất khả thi. Ba mục tiêu chính sách trong bộ ba bất khả thi có quan hệ tuyến tính với nhau hay không. Với giả thiết như vậy, chúng ta nêu ra ví dụ và tính được tổng cộng 3 biến trong bộ ba bất khả thi là một hằng số. Kết quả này minh chứng cho khái niệm: một sự gia tăng 1 trong 3 biến sẽ đánh đổi bằng sự giảm giá trị của 2 biến còn lại. Kết quả này rút ra một công cụ dự đoán mức độ thay đổi giữa 3 mục tiêu trong chính sách bộ ba bất khả thi.
Phần 2 phác thảo phương pháp luận cho việc xây dựng những chỉ số trilemma mà những chỉ số này đo lường những kết quả đạt được trong mục tiêu chính sách của trilemma. phần này cũng thống kê tổng quát những chỉ số và kiểm chứng rằng khi có 1 sự thay đổi trong cấu trúc trilemma đều có liên quan đến sự kiện kinh tế toàn cầu.
XEM THÊM 999+ ===> TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Phần 3 đã kiểm chứng mối quan hệ tuyến tính những chỉ số trong trilemma và để chứng minh rằng: 3 mục tiêu chính sách này có sự đánh đổi hay không.
Phần 4 là phần kết luận. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
-
Đo lường các biến trong trilemma:
Việc phân tích sự đánh đổi theo chủ nghĩa thực nghiệm được thực hiện để đánh giá những chính sách này.
Tuy nhiên, chỉ có 1 số ít kết quả tốt. Trong bài này chúng tôi sẽ khắc phục những khuyết điểm của cách đo lường trên bằng việc đưa ra một vài chỉ số đo lường.
2.1 Xây dựng phương pháp đo lường trilemma:
Phân tích thực nghiệm của việc “đánh đổi” được yêu cầu để đánh giá những chính sách này. Tuy nhiên có 1 số kết quả cho kết quả tốt, và có những kết quả không đạt như mong muốn, chưa được chính xác. Trong bài này chúng ta sẽ khắc phục những khuyết điểm và đưa ra một số chính sách mới.
Tự do tiền tệ (MI)
Phạm vi của tự do tiền tệ được đo lường bởi hàm thuận nghịch định kỳ hàng năm của lãi suất tháng giữa nước chủ nhà và nước so sánh
Chỉ số: mức độ tự do tiền tệ đựoc định nghĩa như sau:
Corr (ii, ij) – (-1)
MI =1 – 1-(-1)
Trong đó:
- Lãi suất của nước chủ nhà
- Lãi suất của nước cơ sở
Bằng cách xây dựng này, giá trị MI nằm trong khoảng là 0 tới 1. Giá trị này càng cao có nghĩa là chính sách tiền tệ càng tự do hơn.
- đây, nước so sánh được định nghĩa là nước mà có chính sách tiền tệ gần giống với nước chủ nhà (theo định nghĩa của Shambaugn, 2004). Những nước để so sánh như: ÚC, Bỉ, Pháp, Đức, Malaysia, Nam Phi, Anh và Mỹ. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Số liệu của những nước này đã có sẵn theo từng năm theo bảng dữ liệu của Shambaugn. Những nước cơ sở được đăng ký dựa trên báo cáo hàng năm “exchange arrangement and exchange restrictions” (AREAER) của IMF và mạng CIA.
Tỷ Gía Hối Đoái cố định (ERS):
Để đo lường ERS , ta sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ giá hối đoái của nước chủ nhà và nước so sánh. kết quả của chỉ số này nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
ERS = Stdev (exch _rate)
1 + d log E1/dt + 0.01
d log E1/dt + 0.01 là giá trị tuyệt đối của tỷ lệ của tỷ giá hối đoái của tháng 121 của năm.
ERS cho kết quả càng cao thì biểu thị mức độ ổn định của tỷ giá nước đang so sánh so với nước cơ sở và ngược lại.
Chỉ số KAOPEN hay còn gọi là tự do hóa dòng vốn:(mất cân bằng toàn cầu)
Để đo lường được mức độ kiểm soát tài khoản vốn vô cùng khó khăn, mặc dù đã có nhiều phương pháp tồn tại để đo lường phạm vi và cường độ của kiểm soát vốn, nhưng những phương pháp này chưa đo lường được 1 cách đầy đủ được mức độ phức tạp của kiểm soát tài khoản vốn trong thế giới thực. Tuy nhiên để đo lường mức độ tự do hóa dòng vốn, chúng ta sử dụng chỉ số của: tài khoản vốn mở (capital account openness) hay chỉ số KAOPEN (chỉ số này do ông CHINN và ông ITO phát triển vào năm 2006, 2008). ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Chỉ số KAOPEN dựa vào những thông tin từ báo cáo hàng năm “exchange arrangement and exchange restrictions” (AREAER). Đặc biệt là KAOPEN là chỉ số được chuẩn hóa đầu tiên, là chỉ số chính cấu thành nên giá trị của bộ ba: tỷ giá hối đoái, hạn chế trong giao dịch tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và yêu cầu từ bỏ nhập khẩu.)
Chỉ số Chinn và ITO được sắp xếp theo thứ tự từ 0 đến 1, giá trị càng cao cho thấy việc chuyển giao vốn giữa các quốc gia ngày càng tăng (more open to cross-border capital transactions) . Chỉ số này là theo số liệu báo cáo của 171 quốc gia giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2006.
2.2 Theo dõi các chỉ số(mất cân bằng toàn cầu)
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Việc so sánh những chỉ số này cho thấy vài nội dung về cấu trúc tài chính quốc tế được giải quyết thế nào qua thời gian. Đối với mục tiêu này, “ biểu đồ tháp” hữu ích nhất. ( bộ ba bất khả khi mất cân bằng toàn cầu )
Trên đây là Tiểu luận: Giả thuyết “bộ ba bất khả khi” trong kỷ nguyên sự, còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận, nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562