Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ

Rate this post
Bài viết Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, AD chia sẻ với các bạn đang học chuyên ngành Luật. Đây là bài mẫu chi tiết, đầy đủ các ý được tham khảo từ các giáo trình giáo án và các tài liệu mẫu liên quan. Tuy nhiên nếu các bạn cần thêm các tài liệu tương tự như Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại thì trên trang Viettieuluan có rất nhiều, tìm kiếm và tải về miễn phí ngay.

Ngoài ra, AD còn nhận viết các bài Tiểu luận, khóa luận, báo cáo,… đa dạng các ngành nghề, các bạn có nhu cầu hãy chủ động liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan ngay để được tư vấn miễn phí nhanh chóng nhé!


Phần mở đầu Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại

Ở nước ta hiện nay, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và thế giới thì có nhiều vấn đề nảy sinh trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội. Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng như hiện nay thì nền kinh tế – xã hội ở nước ta phải được xây dựng trên một nền tảng cơ sở vật chất nhất định. Việc tham gia vào các quan hệ Thương mại đã và đang đưa các chủ thể trong các quan hệ được ràng buộc bằng các quy định pháp lý được thể hiện bằng các quy định rõ ràng, cụ thể. Có thể nói rằng hoạt động thương mại đã đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đáp ứng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

Ở nước ta hiện nay cùng với việc ban hành một hành lang pháp lý vững chắc nhằm tăng cường công tác quản lý trong hoạt động thương mại đã trở nên cần thiết và cấp bách. Các quy định của pháp luật thương mại điều chỉnh mọi vấn đề thương mại đã tương đối hoàn thiện. trong đó đặc biệt là các các chế tài trong hợp đồng thương mại được Luật thương mại 2005 và các văn bản pháp lý có liên quan điều chỉnh một cách chi tiết nhằm áp dụng trong thực tiễn một cách có hiệu quả.

Trong một vài năm trở lại đây thì đối với hoạt động thương mại nói chung ở nước ta luôn không ngừng củng cố và hoàn thiện pháp luật trên mọi phương diện. Việc hoàn thiện các quy định pháp lý về chế tài trong hợp đồng thương mại của các bên đã mang lại nhiều kết quả quan trọng cả ở góc độ lý luận và hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, trong mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, hoạt động thương mại đã có sự thay đổi để hòa chung vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung thì yêu cầu hoàn thiện những quy định rõ ràng là điều vô cùng quan trọng. Với những tính chất ưu việt và tầm quan trọng nêu trên, các chế tài trong hợp đồng thương mại của các bên trở thành những quy định quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội – nhất là trong nền kinh tế hàng hoá với cơ chế mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay. Thế nhưng, thực tiễn của quá trình áp dụng chế tài trong hợp đồng thương mại giữa các bên còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, còn có những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, giữa văn bản và thực tế. Vì vậy, nghiên cứu về đề tài “Các chế tài trong hợp đồng thương mại” là một việc làm cần thiết và cấp bách góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về vấn đề này và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế tài thương mại nói riêng và hệ thống pháp luật thương mại nói chung đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế tài thương mại trong thực tiễn nước ta.

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

Phần nội dung Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại

1. Cơ sở lí luận về áp dụng chế tài trong hợp đồng thương mại

Trong xã hội hiện nay, trước sự phát triển kinh tế thì việc quy định các chế tài thương mại luôn được các chủ thể tham gia trong hoạt động thương mại chú ý thực hiện nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Do vậy trên thực tế thì các quy định về chế tài thương mại luôn giữ một vai trò quan trọng trong nội dung của hợp đồng thương mại nói chung. Vì vậy, trong nền kinh tế hội nhập thì những quy định trên được quy định một cách cụ thể, chi tiết là điều vô cùng cần thiết và cấp bách. Khái niệm về chế tài được hiểu một cách đơn giản đó là hình phạt của các nhân, tổ chức đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực nào đó. Chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm với những quy tắc xử xử chung được ghi nhận trong phần quy định và giả định của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, xét trong quan hệ xã hội hiện nay thì cách hiểu như trên là không chính xác. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

Trước hết xét dưới góc độ ngôn ngữ học: Thuật ngữ “chế tài” sẽ được hiểu là “bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy tắc xử sự đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng  hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện đúng nội dung tại phần quy định. Căn cứ vào tình chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, chế tài được phân chia thành nhiều loại: chế tài thương mại, chế tài dân sự, chế tài hình sự….

Những cách hiểu về chế tài như trên có đặc điểm chung là những biện pháp tác động đến các chủ thể trong đời sống xã hội nói chung trong việc sử dụng những biện pháp tác động nhằm áp dụng đối với các chủ thể trong hoạt động thương mại nói chung, tạo nên hậu quả pháp lý tương xứng với hành vi đã gây ra. Tuy nhiên, nếu hiểu áp dụng cách hiểu thông thường là hình phạt thì không đúng, không quan tâm đến mục đích áp dụng, tác dụng của các chế tài trong hoạt động thương mại khi áp dụng. Tuy nhiên, với định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt trực tuyến không chỉ quan tâm đến bản chất mà còn mà còn chú trọng đến cả mục đích của định nghĩa này để thông qua đó để áp dụng trong thực tiễn một cách sao cho hiệu quả.

Dưới góc độ pháp lý, chế tài thương mại dưới góc độ pháp lý được hiểu theo nghĩa rộng được hiểu là chế tài do cơ quan nhà nước, bên bị vi phạm áp dụng đối với chủ thể vi phạm khi có những hành vi vi phạm pháp luật về thương mại. Như vậy, chế tài thương mại dưới góc độ này được hiểu theo nghĩa là chế tài dân sự theo nghĩa rộng, bao gồm cả hoạt động thương mại. Với mục đích là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm mà còn bảo đảm lợi ích của Nhà nước

Chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại 2005 được ghi nhận được áp dụng cho bên vi phạm khi có những hành vi vi phạm xảy ra trong giao kết, thực hiện hợp đồng. Chế tài này còn được gọi là chế tài hợp đồng. Khi một bên chủ thể vi phạm các quy định về thương mại được quy định trong Luật Thương mại 2005 và các quy định khác có liên quan, sẽ bị áp dụng các chế tài được quy định tại Điều 292, Luật thương mại 2005, cụ thể tại Điều 292. Các loại chế tài trong thương mạ. Như vậy, chế tài thương mại trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa hẹp tức là tổng hợp các biện pháp mang tính bản chất dân sự, có tác động bất lợi về tài sản đối với chủ thể vi phạm nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm. Với tầm quan trọng nêu trên thì những quy định của Luật thương mại về chế tài thương mại nói chung đã điều chỉnh một cách tương đối hợp lý các vấn đề liên quan đến việc áp dụng  từ lý luận đến thực tiễn. Tạo ra nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động có liên quan đến việc thực hiện chế tài thương mại nói chung trong tiến trình hội nhập kinh tế – quốc tế.  

* Sự cần thiết phải quy định về chế tài trong hợp đồng thương mại

Thứ nhất, CTTM hiện nay đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Phải nói rằng, CTTM có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của nền kinh tế, không những nó ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên đến các hoạt động thương mại của một tổ chức, cá nhân đơn lẻ mà có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của một quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, xuất phát từ tầm quan trọng của công tác quản lý trong hoạt động thương mại nói chung và CTTM nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

Thứ ba, xuất phát từ vai trò quan trọng của quy định về CTTM trong quá trình hội nhập kinh tế – quốc tế trong tiến trình hội nhập. Đánh giá đúng đắn về vai trò quan trọng của các quy định về CTTM trong tiến trình hội nhập là việc đặt nền móng, hình thành nền tảng pháp lý căn bản cho hoạt động thương mại trong và ngoài nước.

* Đặc điểm của chế tài trong hợp đồng thương mại

Chế tài trong hợp đồng thương mại trong thực tế là được xem là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như : thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong hoạt động thương mại, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế …. thì chế tài trong hợp đồng thương mại còn có những đặc điểm riêng sau đây:

Một là, về cơ sở pháp lý: Chế tài trong hợp đồng thương mại là một loại trách nhiệm thương mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại.

XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN NGÀNH LUẬT

Hai là, điều kiện phát sinh: điều kiện phát sinh các chế tài trong hợp đồng thương mại đó là : Có hành vi vi phạm xảy ra. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế. Có lỗi của bên vi phạm, đây là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các loại chế tài. Và các chế tài này được áp dụng trong trường hợp. Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm CTTM để bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.

Ba là, hậu quả: Các CTTHĐTM có thể mang đến một hậu quả bất lợi về kinh tế nói chung, đó có thể là thiệt hại về tài sản, mối quan hệ làm ăn…cho người gây thiệt hại.

2. Pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mại

2.1. Pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mại

Xuất phát từ vai trò quan trọng của các quy định về CTTHĐTM đối với mỗi một quốc gia nên các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã có những quy định rất cụ thể quản lý về CTTM ở nhiều cấp độ khác nhau. Có thể kể đến Pháp luật Hoa Kỳ thì đòi hỏi một hợp đồng có hiệu lực phải có đầy đủ năm yếu tố sau đây: (1) Phải là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên; (2) Phải là sự thỏa thuận được xác lập bởi các bên có đầy đủ năng lực giao kết hợp đồng; (3) Phải có mục đích và nội dung hợp pháp, có nghĩa là hợp đồng không được trái pháp luật hoặc trật tự công cộng; (4) Phải tuân thủ các điều kiện về hình thức nhất định; (5) Phải là thỏa thuận có tính chất đền bù (consideration)

Công ước ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) là một trong những điêù ước quốc tế quan trọng nhất trong quan hệ thương mại quốc tế hiện nay. Trong CISG, các biện pháp này được quy định xen kẽ trong các điều luật quy định về  nghĩa vụ đối với cả bên bán lẫn bên mua. Ví dụ: Mục III, Chương 2 từ điều 45 đến điều 52 quy định về “Các biện pháp pháp lý trong trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng” và Mục IV, Chương 3 từ điều 61 đến điều 63 về “Các biện pháp pháp lý trong trường hợp bên mua vi phạm hợp đồng” và Chương V về nghĩa vụ chung cho cả người bán và người mua. Theo đó có thể thấy rằng các quy định của CISG đã có cách sắp xếp điều khoản như vậy, một mặt, làm cho việc tra cứu rất thuận lợi; mặt khác, cho thấy được tinh thần của các nhà soạn thảo CISG là tạo ra sự bình đẳng về mặt pháp lý cho người bán và người mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo quy định của CISG có quy định về CTTHĐTM được ghi nhận đó là : tạm dừng thực hiện hợp đồng (CISG đều cho phép một bên tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng (suspension) như vũ khí để tự vệ chống lại sự vi phạm của bên kia, CISG trao quyền cho một bên có thể tạm ngừng thực hiện hợp đồng nếu có dấu hiệu cho thấy bên kia sẽ không thực hiện một phần chủ yếu nghĩa vụ của họ, cho đến khi bên kia chứng minh được ý định và khả năng thực hiện nghĩa vụ tương ứng) ; Chế tài hủy hợp đồng (avoidance of contract) được quy định từ các được quy định lồng ghép trong các quy định về quyền của người mua và người bán trong CISG (Điều 49 và Điều 64)…   Điều 25 của Công ước Viên quy định rằng : “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu qủa đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn  tương tự”. Có một thực tế cần được nhận thức rằng CISG không phải là một điều ước quốc tế hoàn hảo có đầy dủ mọi quy định cần thiết và được cập nhật đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Ví dụ, như đã đề cập đến ở trên, “Phạt vi phạm hợp đồng” là một trong những chế tài rất hữu hiệu đã được ghi nhận trong LTM 2005 và áp dụng rộng rãi bởi giới doanh nhân Việt Nam song lại không được công ước Viên 1980 thừa nhận. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

2.2. Pháp luật Việt Nam về chế tài trong hợp đồng thương mại

Cùng với Hiến pháp, các văn bản luật cũng quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn về nội dung bảo vệ quyền của các chủ thể trong vấn đề về CTTM hiện nay luôn được quy định một cách chặt chẽ tại Luật thương mại. Ngày 14/6/2005, Quốc Hội ban hành Luật số 36/2005/QH11, Luật thương mại 2005, quy định về chế tài thương mại tại Mục I chương VII, từ Điều 292 đến điều 316 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành phần nào đã thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì thế mà trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Hiện tượng vi phạm hợp đồng cũng diễn ra nhiều hơn. Để giúp đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng pháp luật về chế tài trong thương mại ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Điều 292 Luật thương mại 2005 đã quy định cụ thể vấn đề ngày

Tiểu luận Các chế tài trong hợp đồng thương mại
Tiểu luận Các chế tài trong hợp đồng thương mại

Theo quy định về chế tài trong hợp đồng thương mại được quy định tại Điều 292 đã nêu rõ ràng về vấn đề này. Chế tài trong hợp đồng thương mại tất cả là sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên vi phạm hợp đồng trong thương mại. Cụ thể:

* Buộc thực hiện đúng hợp đồng

Căn cứ theo khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại 2005 quy định buộc thực hiện đúng hợp đồng: Việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Theo quy định này, bên vi phạm sẽ phải thực hiện đúng theo các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng; dùng các biện khác để khắc phục và thực hiện hợp đồng. Chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục này sẽ do bên vi phạm chịu. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

* Đối với những quy định tại Khoản 2 Điều 292 Luật Thương mại 2005: Theo quy định của BLDS 2015 tại Khoản 1 điều 418. Theo Điều 226, Luật thương mại trên cơ sở đó thì quy định đó là: “Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định”. Khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận trước khoản tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ mà không có lý do chính đáng. Phạt vi phạm là chế tài nhằm trừng phạt bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được các bên dự kiến trước. Việc quy định mức phạt vi phạm hợp đồng có thể làm cho bên bị vi phạm nhận được số tiền bị thiệt hại đã được dự tính trước mà không cần phải chứng minh có thiệt hại thực tế xảy hay không.

Cũng theo quy định BLDS thì tại khoản 3 Điều 418 ghi nhận: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.” Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm. Như vậy, phạt vi phạm có thể được áp dụng như một hình thức trách nhiệm đơn nhất hoặc đồng thời với trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

* Buộc bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 3 Điều 292: Tại Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định:Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.Căn cứ vào quy định trên việc phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận. Điều này có nghĩa chỉ khi trong hợp đồng có sự thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm mới có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng này. Và việc áp dụng chế tài này không căn cứ vào việc bên bị vi phạm có hay không có thiệt hại xảy ra.

* Chế tài Tạm ngừng thực hiện hợp đồng quy định tại khoản 4 Điều 292 Luật thương mại: Là hình thức chế tài theo đó 1 bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.  Tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng mà theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuê. Bên bị vi phạm không đương nhiên có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng khi có sự vi phạm mà hình thức chế tài này chỉ được áp dụng trong trường hợp quy định tại Điều 308 Luật thương mại 2005: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng; hoặc trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

* Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng quy định tại khoản 5 Luật Thương mại 2005 và theo Điều 310 được quy định rõ như sau:

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
  2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Theo quy định này thì việc đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó một bên chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hoá. Căn cứ phát sinh về chế tài này trong quan hệ hợp đồng khi có thỏa thuận đó là: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng, một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm 1 bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật thương mại. Theo đó, bên đình chỉ thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên kia về việc đình chỉ thực hiện hợp đồng. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán được áp dụng khi có đủ các điều kiện: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và các trường hợp này phải không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng.

XEM THÊM ==> TRỌN BỘ TIỂU LUẬN MẪU ĐIỂM CAO 

* Chế tài hủy bỏ hợp đồng quy định tại khoản 6 Điều 292 Luật thương mại và các quy định tại các Điều 312, 313, 314 Luật thương mại 2005: là hình thức chế tài theo đó 1 bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ HĐ làm cho hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng được quy định khi có xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Huỷ bỏ hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Theo Điều 312 LTM thì huỷ bỏ hợp đồng bao gồm huỷ bỏ toàn phần, tức là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; và huỷ bỏ một phần, tức là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

* Các biện pháp khác theo quy định tại khoản 7 Điều 292 LTM 2005 thì: Bên cạnh các chế tài được quy định nêu trên các bên thoả thuận về các hình thức chế tài. Tuy nhiên việc thỏa thuận đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Quy định này nhằm mở rộng hoạt động áp dụng theo hướng mở cho thương mại Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập nói chung. Như vậy, trong quan hệ thương mại, giữa các chủ thể khi giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận về các chế tài xử lý vi phạm trong bản hợp đồng ký kết giữa các bên. Khi một trong các bên vi phạm có thể sẽ phải chịu các hình thức chế tài nêu trên trừ trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định. Nếu các bên không tự nguyện thực hiện có thể yêu cầu Tòa án hoặc trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài thì sẽ đề nghị cơ quan rong tài giải quyết.

Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định khá thống nhất và xuyên suốt về vấn đề các chế tài trong hợp đồng thương mại đáp ứng tình hình mới. Điều này tạo điều kiện để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức trong sử dụng các quy định về CTTM trong tình hình hiện nay; thể hiện rõ nét sự quan tâm thường xuyên và ý nghĩa của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề sử dụng các quy định của pháp luật về thương mại trong tình hình hiện nay.

3. Thực tiễn áp dụng chế tài trong hợp đồng thương mại

Đánh giá tầm quan trọng cũng như khẳng định ý nghĩa của các quy định về CTTHĐTM trong hoạt động kinh tế xã hội nên trong những năm gần đây thì Việt Nam đã ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại nói chung và chế tài trong hợp đồng thương mại nói riêng. Do vậy, hoạt động này đã đạt được một số thành tựu nổi bật như sau:

Hệ thống pháp luật về Chế tài trong hợp đồng thương mại của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện. Các văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ trong lĩnh vực thương mại nói chung và CTTHĐTM nói riêng, đây cũng là việc làm quan trọng chuẩn bị cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Xét về mặt hình thức pháp lý: ngày càng hệ thống văn bản pháp luật về CTTHĐTM trong đời sống kinh tế – xã hội ngày càng được nâng cao về hiệu lực pháp lý. Chính các quy định của Luật Thương mại (2005) và Bộ Luật Dân sự (2015) khi ra đời đã đánh dấu bước phát triển của pháp luật đối với các hình thức chế tài trong thương mại nói riêng và chế định hợp đồng nói chung

Xét về nội dung của pháp luật CTTHĐTM và cơ chế quản lý, thực thi pháp luật về chế tài thương mại nói chung. Xét về nội dung của các quy định về chế tài trong hợp đồng thương mại nói chung ngày càng tiến bộ, bao quát và đầy đủ hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. .

4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài trong thương mại

Một là,  những quy định của pháp luật CTTHĐTM nói riêng và quy định của Luật thương mại nói chung Việt Nam phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế. Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về CTTHĐTM nói riêng và các quy định về thương mại nói chung thì các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi những quy định của pháp luật Việt Nam về TM nhằm nâng cao mức độ tương thích pháp luật trong nước và thế giới.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin cho doanh nghiệp những quy định về thương mại của WTO, Việt Nam và một số nước trên thế giới.

Ba là, đối với các quy định còn vướng mắc về chế tài trong hợp đồng thương mại trong thược tiễn thì cần đưa ra giải pháp, cụ thể:

Đối với việc quy định về mức phạt vi phạm hợp đồng thì các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi Luật Thương mại năm 2005 theo hướng đó là: Bỏ quy định về mức trần phạt vi phạm hợp đồng như hiện nay. Bởi lẽ, nó sẽ làm hạn chế quyền tự do định đoạt, tự do thỏa thuận của các thương nhân trong hoạt động thương mại. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

5. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mại

Thứ nhất, giải pháp đối với  doanh nghiệp. Sắp xếp, tổ chức quản lý nhân sự hợp lý, tạo điều kiện để áp dụng các quy định của thương mại trong thời gian tới được tiến hành một cách hợp lý.

Thứ hai, nâng cao vai trò của các Hiệp hội trong thực thi pháp luật về thương mại trong tiến trình hội nhập.

Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về thương mại nói chung và áp dụng các chế tài trong hợp đồng thương mại

XEM THÊM ==> Trọn bộ bài thu hoạch ngành Luật

Phần kết luận bài Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại

Chế tài trong hợp đồng thương mại là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như khoa học kinh tế – xã hội, khoa học pháp lý,… Xét ở góc độ pháp lý, chế tài trong hợp đồng thương mại là tổng hợp những quy định của Nhà nước về hình thức để đảm bảo các điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động thương mại nói chung ở nước ta hiện nay. Với những chức năng ưu việt – đó là đưa ra những quy định pháp lý về việc xử lý những hành vi vi phạm trong hoạt động thương mại trong và ngoài nước, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới – hoạt động thương mại nói chùng trở thành một chính sách có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt lớn và không thể thiếu trong điều kiện nền kinh tế hiện nay.

Qua hơn 30 năm đổi mới được ban hành và thực thi, đối chiếu với tình hình thực hiện công tác áp dụng các quy định về thương mại trong và ngoài nước theo cơ chế cũ trước đây, có thể khẳng định vai trò quan trọng của các chế tài trong hợp đồng thương mại nói chung. Điều này đã làm thay đổi cơ bản cả về quan điểm, chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện và không ngừng được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng với nhu cầu đổi mới của đất nước, nhất là từ khi kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Bộ Công thương hiện nay đã thực sự lớn mạnh và phát triển về mọi mặt, trở thành nòng cốt của hệ thống kinh tế quốc gia, là công cụ đắc lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển nền kinh tế đất nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội, tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước. ( Tiểu luận: Các chế tài trong hợp đồng thương mại, 9đ )

DOWNLOAD


Hiện tại  AD có nhận viết các bài Tiểu luận, khóa luận, báo cáo,… đa dạng các ngành nghề, các bạn có nhu cầu hãy chủ động liên hệ với AD qua zalo Viettieuluan ngay để được tư vấn miễn phí nhanh chóng nhé!

Contact Me on Zalo