Tải miễn phí bài Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Thiết kế một số trò chơi vận động và tiểu luận về học sinh tiểu học trong môn Thể dục trên chuyên mục tiểu luận Sáng kiến kinh nghiệm.
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Sáng kiến kinh nghiệm nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562
Chương I: Cơ sở lí luận về vấn đề thiết kế trò chơi vận động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục.
1. Các khái niệm có liên quan
1.1. Trò chơi vận động là gì?
Trò chơi vận dộng là phương pháp tập luyện, hoạt động phối hợp một cách hữu cơ với việc rèn luyện thân thể.Trò chơi vận động là trò chơi nhằm rèn luyện các vận động cho trẻ. Nó là phương tiện chủ yếu giáo dục thể lực cho trẻ, giải quyết các nhiệm vụ vận động dưới dạng trò chơi nên trẻ vận động tích cực thoải mái.
Trò chơi vận động cho học sinh tiểu học có những đặc điểm sau:
Đối với học sinh tiểu học, trò chơi vận động được sử dụng tích cực để giảng dạy những động tác (kĩ năng vận động cơ bản): đi, chạy, nhảy, ném, vượt chướng ngại vật….Nội dung trò chơi ở các lứa tuổi (các lớp) có khác nhau.
– Ở các lớp đầu cấp học, trò chơi diễn ra theo xu hướng hình thành thói quen vận động, khả năng giao tiếp các mối quan hệ cá nhân với tập thể tạo cho học sinh môi tường hoạt động tự nhiên, kích thích và đảm bảo sự phát triển thể chất một cách bình thường.
– Với học sinh các lớp cao hơn (cuối bậc tiểu học), trò chơi vận động có đặc điểm mang nhiều ý nghĩa đến sự phát triển các tố chất thể lực, khối lượng vận động tăng, thời gian chơi kéo dài hơn, cần huy động nhiều các nhóm cơ toàn thân tham gia, qua đó củng cố, tăng cường sức khỏe cho học sinh. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
1.2. Các tố chất thể lực
Sức nhanh là tổ hợp những đặc tính về hình thái – chức năng của cơ thể xác định đặc tính tốc độ của động tác và phản ứng vận động. Sức nhanh có nhiều loại khác nhau, chúng bao gồm các thành phần sau: Phản ứng vận động; Tốc độ từng động tác; Tần số động tác; tức là năng lực thực hiện một hành động vận động trong điều kiện cho trước với thời gian ngắn nhất.[26/3]
Sức mạnh là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài hoặc chống lại lực cản đó bằng sự nỗ lực của cơ bắp.[27/3]
Sức bền là khả năng làm việc trong một thời gian tương đối dài mà không bị giảm sút cường độ vận động và ý chí hay nói cách khác sức bền là khả năng chống lại mệt mỏi trong một hoạt động với thời gian kéo dài nào đó. Dự vào đặc điểm của mệt mỏi ta chia thành sức bền chung và sức bền chuyên môn. Sức bền cơ sở (sức bền chung) là năng lực chống lại mệt mỏi trong các hoạt động kéo dài với tốc độ vận động nằm trong giới hạn trao đổi năng lượng có đủ oxi tham gia. Sức bền chuyên môn là năng lực chống lại sự mệt mỏi trong các hoạt động cụ thể.[29/3]
Mềm dẻo là khả năng thực hiện các động tác với biên độ lớn của hệ vận động của người thực hiện. Mềm dẻo được thể hiện ở độ linh hoạt của các khớp, độ đàn hồi của cơ bắp và dây chằng. Mềm dẻo là tiền đề quan trọng để đạt được yêu cầu về số lượng và chất lượng vận động. Năng lực mềm dẻo nếu không phát triển đầy đủ sẽ dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình phát triển năng lực thể thao cho học sinh.[30/3]
Tố chất khéo léo là năng lực tiếp thu nhanh các động tác mới và biến đổi kịp thời, chính xác, linh hoạt các nhiệm vụ vận động cho phù hợp với các tình huống thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh. Khéo léo là một tổ hợp các tiền đề thực hiện thành công các hoạt động. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
2. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học [4]
Sự say mê học tập chưa thể hiện đó là nhận thức trách nhiệm đối với xã hội mà chủ yếu là từ các động cơ mang nghĩa tình cảm như: được thầy cô, ông bà, bố mẹ khen ngợi và động viên. Học sinh tiểu học đầu cấp có khuynh hướng ghi nhớ một cách máy móc, chưa có khả năng phân tích tự giác. Học sinh lớp 3,4 bước đầu đã biết tìm các dấu hiệu đặc trưng cho sự vật, biết phân biệt các đặc điểm chi tiết, các phần kĩ thuật động tác, song còn đơn giản. Khả năng phân tích các hiện tượng trong tập luyện, lao động, sinh hoạt còn kém nên dễ bị kích động khi nắc nhở, sai bảo, dẫn đến biểu hiện kém tự tin, kém khả năng kiềm chế hành vi, thái độ. Ở các lớp cuối cấp (lớp 4,5), việc ghi nhớ được hình thành và phát triển, từ tư duy trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ cái cụ thể đến cái tổng quát.
Về tình cảm, thái độ cư xử sinh hoạt, học tập của học sinh tiểu học chưa ổn định. Các em thường xuyên xúc động, thay đổi tâm trạng vui – buồn trong các hoạt động, một thời điểm. Các phẩm chất tâm lí như: tính độc lập, sự kiềm chế, tự chủ còn thấp.
3. Đặc điểm sinh lí vận động của học sinh tiểu học [9/3]
– Đặc điểm hệ cơ xương: Cơ chứa nhiều nước, tỉ lệ chất đạm, mỡ còn ít nên khi vận động chóng mệt mỏi. Sức mạnh còn rất hạn chế, khả năng phối hợp vận động còn kém, khi thực hiện các động tác sẽ có nhiều cử động thừa, tốn sức, kém hiệu quả, gây mệt mỏi, chán nản và lực cơ sẽ phát triển dần theo lứa tuổi. Về xương, tốc độ phát triển của xương nhanh hơn so với các bộ phận khác trong cơ thể, đặc biệt là xương tay và xương chân. Cấu trúc xương và khớp chưa được phát triển hoàn chỉnh vững chắc; các đốt xương ở cột sống có độ dẻo cao, chưa thành xương hoàn toàn và còn trong giai đoạn hình thành đường cong sinh lí.
– Đặc điểm hệ tuần hoàn: Nhịp tim nhanh (mạch đập thông thường là 85 – 90 lần/phút). Khi hoạt động vận động hoặc trạng thái lo lắng thì tim đập nhanh hơn, dồn dập hơn. Lượng máu mỗi lần ti co bóp đưa vào động mạch (lưu lượng tâm thu (LLTT)) được tăng dần: 7 – 8 tuổi, LLTT là: 23ml; 13 – 14 tuổi, LLTT là: 35 – 38ml.
– Đặc điểm hô hấp: Hệ hô hấp đang ở thời kì hoàn thiện, các em đang dần dần tạo nên thói quen chuyển từ kiểu thở kiểu ngực, lồng ngực phát triển chưa hoàn thiện. Độ giản nở của các phế nang (túi phổi) còn thấp nên nhịp thở còn nông. Số lượng phế nang tham gia mỗi lần hô hấp còn ít, nên lượng oxi được đưa vào máu không cao. Lượng không khí chứa đựng trong phổi còn thấp, phổi của các em thường xuyên làm việc khẩn trương mới cung cấp đủ oxi cho cơ thể. Về lượng thông khí phối (thể tích khí mỗi lần hít hoặc thở ra bình thường), dung tích sống (thể tích khí thở ra cố gắng, sau khi hít vào hết sức) được tăng dần theo sự phát triển với lứa tuổi của các em. Tần số hô hấp (số lần hít vào thở ra trong một phút)của học sinh tiểu học tương đối cao. Do đó, khi vận động với lượng vận động vừa phải thì nhịp thở đã tăng lên cao, các em dễ mệt mỏi sớm chuyển sang thở gấp, đòi hỏi phải có thời gian nghỉ ngơi phù hợp với lứa tuổi của các em.
– Đặc điểm hệ thần kinh: Hoạt động phân tích tổng hợp của các em kém nhạy bén, nhận thức các hiện tượng biến đổi của xã hội còn mang tính chủ quan, cảm tính, bị động. Ở lứa tuổi này, các em có khả năng bắt chước một cách máy móc, khả năng phân biệt, tính sáng tạo còn hạn chế.
4. Tác dụng của trò chơi vận động.[271/3]
Trò chơi vận động là một trong những phương tiện giáo dục thể chất được sử dụng kết hợp với bài tập thể chất hoặc du lịch và rèn luyện tự nhiên, góp phần củng cố và nâng cao sức khỏe con người. Thông qua trò chơi vận động góp phần giáo dục khả năng nhanh nhẹn, khéo léo, thông minh, tính thật thà, tính tập thể nhằm giáo dục mặt đức, trí, thể, mĩ…đào tạo con người phát triển một cách toàn diện.
Trò chơi vận động còn là phương tiện vui chơi giải trie, một hình thức nghỉ ngơi tích cực, một hoạt động có tính văn hóa góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho con người. Trò chơi nận động có tác dụng giải tỏa tâm lí nên tạo sự lạc quan yêu đời, vui tươi thỏa mái, góp phần giảm các căng thẳng thần kinh, giảm và chống đỡ được một số bệnh tật.Góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh sự phát triển toàn diện cơ thể học sinh. Đây là một biện pháp giáo dục chính để phát triển thể lực cho các em. Góp phần bảo vệ, tăng cường sức khỏe học sinh và phát triển các tố chất thể lực. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Lớp 1: Diệt các con vật có hại, Qua đường lội, Kéo cưa lừa xẻ, Nhảy ô tiếp sức, Nhảy đúng nhảy nhanh, Chạy tiếp sức, Tâng cầu.
Lớp 2: Bịt mắt bắt dê, Bỏ khăn, Chạy đổi chỗ vỗ tay nhau, Kết bạn, Vòng tròn, Nhóm ba nhóm bảy, Ném trúng đích.
Lớp 3: Tìm người chỉ huy, Thi xếp hàng, Mèo đuổi chuột, Chim về tổ, Thỏ nhảy, Lò cò tiếp sức, Hoàng Anh – Hoàng Yến, Ai kéo khỏe.
Lớp 4: Nhảy lướt sóng, Chạy theo hình tam giác, Thăng bằng, Lăng bóng bằng tay, Đi qua cầu, Trao tín gậy, Dẫn bóng.
Lớp 5: Ai nhanh và ai khéo, Chạy nhanh theo số, Chạy tiếp sức theo vòng tròn, Bóng chuyền sáu, Trồng nụ trồng hoa, Qua cầu tiếp sức, Chuyển nhanh nhảy nhanh, Chuyền và bắt bóng tiếp sức.
6. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung môn Thể dục ở tiểu học
6.1. Mục tiêu [80/3]
– Góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho học sinh, phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là tố chất mềm dẻo và khéo léo, tạo điều kiện cho cơ thể các em phất triển bình thường theo quy luật lứa tuổi và giới tính.
– Trang bị cho học sinh một số tri thức, kĩ năng sơ giản cần thiết nhằm rèn luyện tư thế cơ bản, làm giàu vốn kĩ năng vận động để học sinh học tập, sinh hoạt có hiệu quả hơn và chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc học tập tiếp các nội dung thể dục ở các lớp, các cấp tiếp theo.
– Góp phần giáo dục đạo đức, rèn luyện cho học sinh nếp sống lành mạnh, vui chơi có tổ chức kỉ luật, tạo tiền đè hình thành nhân cách con người Xã hội chủ nghĩa.
6.2. Nhiệm vụ [81/3]
– Thúc đẩy sự phát triển toàn diện các tố chất vận động (sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và tính khéo léo); nâng cao dần khả năng thích ứng của cơ thể đối với những biến đổi bất lợi của thời tiết, khí hậu và tăng sức đề kháng, chống đỡ bệnh tật cho các em.
– Trang bị cho các em những kiến thức cần thiết, cơ bản nhất về thể dục thể thao, hình thành các kĩ năng vận động cơ bản trong thể dục thể thao làm cơ sở cho các em rèn luyện cơ thể, vui chơi, giải trí, tạo cho các em lòng ham thích và thói quen tập luyện thể dục thể thao, rèn luyện thân thể hằng ngày.
– Thông qua các hoạt động thể dục thể thao trong nhà trường nhằm: bồi dưỡng cho các em những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, hình thành những phẩm chất đạo đức Xã hội chủ nghĩa, biết vận dụng và thực hiện những phẩm chất đó trong học tập, lao động và cuộc sống hàng ngày (cần cù, chịu khó, dũng cảm, sống chân thành, có quan hệ tốt với mọi người…)
– Góp phần phát hiện và bồi dưỡng bước đầu các tài năng thể thao cho đất nước.
6.3. Nội dung [83/3]
Nội dung chương trình mới có: Đội hình đội ngũ, bài thế dục, thể dục rèn luyện thân thể và các kĩ năng vận động cơ bản; trò chơi vận động. Cấu trúc nội dung chương trình mới gồm hai phần theo hai nhóm khối: Lớp 1,2,3 và lớp 4,5.
– Nội dung phần “cứng”: dạy đồng loạt (giáo viên có quyền bổ sung, thay sthế theo những quy định cụ thể).
– Nội dung “Tự chọn” áp dụng từ lớp 4,5 cần căn cứ vào các điều kiện sau đây: Năng lực của giáo viên; nhu cầu của học sinh; điều kiện cơ sở vật chất; phong trào và nhu cầu địa phương. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Chương II. Thực trạng việc thiết kế trò chơi vận động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục trường tiểu học Ngô Quyền – An Phú – Tam Kỳ – Quảng Nam.
1. Vài nét về trường tiểu học Ngô Quyền – An Phú – Tam Kỳ – Quảng Nam
Trường tiểu học Ngô Quyền nằm trên địa bàn phường An phú, tiền thân của trường là trường Quảng Phú Tây, năm 2000 được sự giúp đỡ, đầu tư từ cấp thành phố, các doanh nghiệp, trường đã xây dựng lại cơ sở khang trang hơn. Phòng học được cải tiến nhiều, đã đầu tư trang thiết bị phục vụ việc giảng dạy và công tác của cán bộ, viên chức của trường. Trường đã mua 2 máy Projecter và mua sắm nhiều trang tiết bị nghe nhìn: tranh ảnh, máy catset….Sân vận động được trán xi-măng nhưng chỉ trán trước sân trường, khuôn viên còn lại đất đỏ pha cát trắng nên cũng tương đối sạch. Tuy nhiên, nhìn chung điều kiện cơ sở vật chất của trường vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của công tác giảng dạy của giáo viên bộ môn Thể dục.
XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN
2. Thực trạng việc thiết kế trò chơi vận động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục
Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục nước ta hiện nay phần lớn các em học sinh có điều kiện để tiếp thu được nhiều tri thức khoa học và cách tiếp cận vấn đề ngày càng tiến bộ hơn, đồng thời có đội ngũ thầy, cô giáo có trình độ chuyên môn ngày càng cao và tâm huyết với nghề nghiệp. Bên cạnh đó mỗi gia đình người hiện nay thường chỉ có một đến hai người con nên có điều kiện quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho con cái được học tập. Đặc biệt là chính sách của Đảng – nhà nước ta rất coi trọng nền giáo dục xem giáo dục là nhiệm vụ “quốc sách hàng đầu”. Tổng chi cho giáo dục là 20 % trong tổng thu ngân sách nhà nước. đây là những thuận lợi để cho các em học sinh có điều kiện tiếp thu tri thức khoa học và rèn luyện thân thể một cách tốt nhất. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Hiện nay, thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nhiều giáo viên trường Tiểu học Ngô Quyền, đặc biệt là các giáo viên trẻ đã không ngừng tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm, sáng tạo ra những ý tưởng hay, để có thể tạo ra một giờ giảng sinh động, ấn tượng và đạt được mục tiêu của bài học cần chuyển tải đến người học. Trước yêu cầu ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng bài giảng với phương châm rút ngắn khoảng cách giữa người dạy và người học bằng những hoạt động, sản phẩm cụ thể trong dạy học. Chúng ta vẫn thường đưa ra phương châm hay khẩu hiệu: “tạo ra một giờ học dân chủ” hay “tạo ra một giờ học thân thiện” và bằng cách này hay cách khác, phương pháp truyền thống hay hiện đại, đôi khi chúng ta vẫn loay hoay để có một giờ giảng tốt nhất, thân thiện và dân chủ nhất. Theo điều tra thì 100% học sinh tiểu học đều thích học những giờ học có tổ chức trò chơi và các em cảm thấy rất vui. Chất lượng dạy học được nâng cao khi có sự hổ trợ của công nghệ thông tin. Theo đó, phương pháp sử dụng “trò chơi” có thể được hiểu đó là một phương thức, cách thức truyền tải một thông điệp, một nội dung cụ thể nào đó đến người nghe thông qua hình thức trò chơi – chơi mà học, từ đó ý nghĩa của nội dung bài học được truyền tải đến người nghe một cách nhẹ nhàng, nhưng đầy sâu sắc và dễ hiểu. Trong môn Thể dục, các em không chỉ thoải mái, vui vẻ trong khi chơi mà các em còn được vận động thân thể, rèn luyện các tố chất thể lực
Mặc dầu, chương trình giáo dục thể chất cho học sinh tiểu học đã được phổ cập nhưng nhà trường vẫn chưa tạo ra một chế độ vận động thân thể tích cực thường xuyên và có hệ thống đặc biệt trong các trò chơi vận động dẫn tới hiệu quả giáo dục thể chất cho các em thấp. Kết quả khảo sát cho thấy, chất lượng tổ chức trò chơi – vận động còn thấp, thiếu tác động rèn luyện cơ thể cho học sinh, lượng vận động quá thấp dễ gây nhàm chán. Kết quả kiểm tra sức khỏe định kì của nhà trường đầu năm học 2007 – 2011 cho thấy: Học sinh nam có chiều cao trung bình 6 tuổi là 99,00cm và cân nặng là 16,2 kg khi đến 10 tuổi là 128,70 cm, cân nặng 25,3 kg. Học sinh nữ 6 tuổi 98,50cm và cân nặng 15 kg khi đến 10 tuổi 129,8 cm, cân nặng 26,4 kg. Đối với học sinh nam trung bình mỗi năm tăng lên về chiều cao 3,8 cm; nữ 4,0 cm còn cân nặng nam tăng khoảng 2,07 kg; nữ 2,09 kg. Các tố chất thể lực: nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo và khéo léo chưa được quan tâm nên không có điều kiện rèn luyện và phát triển. Theo khảo sát, chúng tôi thu nhận được: 100 % học sinh hứng thú với trò chơi, 50% tố chất thể lực rèn luyện qua trò chơi vận động. Trong chương trình tiểu học: lớp 1 đến lớp 5 các em được học 2 tiết mỗi tuần và mỗi tiết 35 phút, học sinh chỉ được vận động thân thể một cách khoa học chỉ được 2 lần nhưng học sinh thì thiếu ý thức tập luyện, giáo viên dạy theo hình thức nên chất lượng rèn luyện thể lực, nâng cao các tố chất thể lực cho các em không đạt hiệu quả như mong muốn. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Mặt khác, các em đang ở độ tuổi từ 6 – 10 tuổi có một số đặc điểm tâm sinh lý còn hồn nhiên, có gì nói thế và chưa được cân bằng nên biểu hiện ở môn học và nhất là ở các trò chơi các yêu cầu chưa được chính xác, các em còn chưa nhanh nhẹn nên điều khiển các trò chơi còn khó khăn hoặc tham gia chơi được nhưng chưa đúng yêu cầu của các trò chơi. Qua việc điều tra, chúng tôi nhận thấy trong một lớp tỉ lệ học sinh đáp ứng được những yêu cầu của trò chơi còn ít, chính vì vậy ảnh hưởng rất lớn tới từng nội dung bài học. Trò chơi vận động thường lặp lại cách chơi, luật chơi, cách thưởng phạt và hình thức chơi một cách đơn điệu. Trong khi đó, một tuần các em học 2 buổi Thể dục với nội dung không đổi. Cụ thể, hình thức chơi: chia lớp làm 2 đội, mỗi đội 6 – 8 em tham gia như vậy không rèn luyện năng lực vận động của mỗi học sinh. Trong dậy Thể dục, giáo viên phải cho học sinh chơi tất cả các trò chơi đã quy định, ngoài ra giáo viên có thể thay đổi trò chơi tương tự hoặc thay đổi cách chơi. Thế nhưng, giáo viên không thay đổi cách chơi cùng một trò qua các tuần, qua các lớp. Ví dụ như: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lớp 3 (tuần 5, 6, 7 và 17), lớp 4 ở tuần 12, 13 với cùng một cách chơi: Cho lớp tập hợp vòng tròn nắm tay giơ cao, chỉ định 1em mèo, 1 em làm chuột, chạy qua các lỗ hỗng (tay giơ cao giữa 2 học sinh), cả lớp đọc đồng thanh: Mèo đuổi chuột – Mời bạn ra đây – Tay nắm chặt tay – Đứng thành vòng rộng – Chuột luồn lỗ hỗng – Mèo đuổi đằng sau – Trốn đâu cho thoát! Nếu sau 2 lần đọc đồng thanh, mèo không bắt được chuột thì đổi đôi khác. Hay, trò chơi “Ném trúng đích” lớp 2 (tuần 31, 32, 33, 34, 35), lớp 3 (tuần 24, 25), lớp 4 (tuần 6,7,8) với cách chơi như sau: Chia lớp làm 2 đội xếp theo hàng dọc cách vạch giới hạn 50 cm, học sinh thứ nhất cầm một quả bóng ném vào vòng tròn đã chuẩn bị sẵn 3 mức (cách vạch giới hạn 2m) nếu trúng vòng 1 thì được 15 điểm, vòng 2 thì 10 điểm, vòng 3 thì 5 điểm. Ném xong lên nhặt bóng trao cho em thứ 2 và tiếp tục như vậy. Tổng điểm đội nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. Trò chơi này, giáo viên chỉ chuẩn bị mỗi đội một quả bóng nên trong trò chơi không có phần tìm nhà vô địch ném bóng trúng đích. Như vậy, học sinh sẽ không hào hứng, tham gia không tích cực. Ngoài ra có nhiều trò chơi khác được giáo viên tổ chức chơi qua các lớp như: Nhảy ô tiếp sức (lớp 1, 2, 3, 4), Bỏ khăn (lớp 2, 3, 4), Chạy tiếp sức (lớp 2, 3, 4, 5) .v.v.
3. Nguyên nhân tồn tại
3.1. Nguyên nhân khách quan
Uỷ ban nhân dân phường chưa quan tâm nhiều đến giáo dục tiểu học. Do nhà trường chưa đầu tư đầy đủ trang thiết bị cho giáo viên giảng dạy, điều kiện sân trường, phòng học chưa đảm bảo. Con em ở trường chủ yếu là con nhà nông, nên trường không thể có nguồn xã hội hoá. So với trường bạn trên thành phố Tam kỳ, trường tiểu học Ngô Quyền vẫn có nhiều điểm thua kém.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
– Do các em chưa ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc tập luyện thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe cho bản thân,
– Do các em chưa có hứng thú trong tập luyện, khi thích thì tập, không thích thì thôi. Không duy trì tập luyện thường xuyên, tính tự giác tích cực trong tập luyện chưa cao.
– Một số học sinh biểu hiện rất thích thú và bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử, chat trên mạng, nên ít thời gian dành cho hoạt động TDTT và lao động chân, tay.
– Giáo viên dạy bộ môn Thể dục vẫn chưa sáng tạo trong cách giảng, khó khăn với học sinh, cho các em tập luyện quá sức nên các em cảm thấy chán, mệt mỏi và sợ dẫn đến hiệu quả giờ học không cao. Trò chơi vận động sau mỗi tiết học phải tổ chức, tức là mang tính chất bắt buộc do Bộ giáo dục quy định nên trong sách giáo viên đã biên soạn sẵn và như thế giáo viên chỉ cần dựa theo sách mà dạy. Trò chơi tuần này cũng giống tuần sau không mới lạ, không hấp dẫn với học sinh. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
4. Biện pháp khắc phục
Dạy trò chơi cho học sinh là nhằm rèn luyện cho các em có được tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, có tính chủ động và tính kỷ luật cao trong tập luyện cũng như trong vui chơi; trọng tâm là phát triển các tố chất vận động cho các em. Do đó giáo viên cần thực hiện một số việc sau:
– Chuẩn bị sân bãi và phương tiện: Vệ sinh sân tập luyện sạch sẽ, bảo đảm an toàn, kẻ, vẽ sân chơi nếu có.
– Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cho học sinh chơi:
– Tổ chức đội hình cho học sinh chơi: Tổ chức đội hình sao cho hợp lý và luôn thay đổi
các loại đội hình khác nhau để tạo sự hấp dẫn cho học sinh trong khi chơi.
– Nêu tên trò chơi, giải thích kết hợp làm mẫu động tác: Có thể tiến hành theo nhiều cách khác nhau nhưng cần ngắn gọn, dễ hiểu, mang tính hấp dẫn.
– Điều khiển trò chơi: Giáo viên có thể dùng lời nói, tiếng vỗ tay, tiếng còi hay ký hiệu để tạo cho học sinh có sự tập trung chú ý.
– Cho học sinh chơi thử và chơi chính thức.
– Đánh giá kết quả trò chơi.
– Bảo đảm an toàn cho học sinh:Yêu cầu về trật tự và tính kỷ luật cao khi chơi
Đối với những trò chơi các em đã chơi một số lần thì giáo viên chỉ cần nhắc lại cách chơi thật ngắn gọn, dễ hiểu sau đó tổ chức cho học sinh chơi.
4.1. Cách xây dựng một trò chơi vận động
Giáo viên có thể tổ chức bất kì hoạt động nào thành trò chơi học tập bằng cách vận dụng các nhân tố cơ bản sau:
– Phải có tính thi đua giữa các cá nhân và các nhóm.
– Có quy định thưởng, phạt.
– Có cách chơi rõ ràng.
– Có cách tính điểm.
Bước 1: Xác định mục đích của trò chơi.
Mục đích của trò chơi phụ thuộc vào nội dung của bài Thể dục đó. Sau giờ học, trò chơi không chỉ để giải trí mà mục đích phải xác định: phát triển chủ yếu một tố chất hay nhiều tố chất nào của học sinh. Bên cạnh đó, trò chơi xây dựng phải có tác dụng giáo dục nhân cách cho học sinh: tính cần cù, kiên nhẫn, tinh thần hợp tác tập thể… (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Bước 2: Khái quát nội dung của trò chơi :vận động mạnh hay nhẹ
– Cách chơi: Rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh và không tốn nhiều thời gian.
Luật chơi: Xác định như thế nào là phạm quy trong cách chơi đó.
– Hình thức trò chơi: Từ cách chơi đó chọn hình thức chơi phù hợp (cá nhân, nhóm nhỏ, nhóm lớn hay cả lớp)., sắp xếp theo đội hình ngang, dọc, vòng tròn, chữ u hay tam giác.
– Cách tính điểm: Tính điểm theo từng bậc (bậc 1 thì 10 điểm, bậc 2 thì 8 điểm…) hay tính điểm đồng loạt (đạt yêu cầu không phạm quy) nếu phạm quy thì trừ bao nhiêu điểm…
– Cách thưởng phạt: giáo viên phải là trọng tài công minh để phân đội thắng thua. Hình thức thưởng cá nhân hay tập thể, thưởng vật chất hay tinh thần. Hình thức phạt không quá sức đối với các em, nhẹ nhàng vui vẻ.
Bước 3: Chuẩn bị
Xác định rõ cần chuẩn bị những gì để hổ trợ trò chơi: sân bãi, còi hay cờ làm tín hiệu, hiệu lên, vật dụng trong trò chơi.
Bước 4: Đặt tên cho trò chơi và hoàn thiện trò chơi
Dựa vào cách chơi ta đặt tên cho trò chơi (có thể đặt tên trước). Sau đó, xem xét trò chơi đảm bảo chưa; bổ sung, hoàn chỉnh trò chơi theo các mục sau:
+ Tên trò chơi
+ Mục đích của trò chơi
+ Chuẩn bị
+ Hình thức chơi trò chơi
+ Cách chơi, luật chơi
4.2. Cách tiến hành tổ chức trò chơi vận động
Bước 1: Nêu tên trò chơi
– Nêu tên trò chơi và giải thích ý nghĩa của trò chơi.
– Chia đội, đặt tên đội
Bước 2: Phổ biến cách chơi, luật chơi
– Nêu rõ ràng cách chơi: Hiệu lệnh, phân biệt và cách thức làm việc của mỗi thành viên tham gia trò chơi.
– Nêu rõ cách cho điểm, đánh giá
Bước 3: Tiến hành chơi
– Hô hiệu lệnh dứt khoát cho các nhóm đồng loạt tiến hành
– Giáo viên quan sát, điều chỉnh, giúp đỡ các thành viên về cách chơi.
Chơi thử ( đối với những trò chơi mới, lạ) nhằm giúp học sinh hiểu cách chơi.
Chơi thật
XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Bước 4: Tổng kết trò chơi
– Giáo viên kiểm tra kết quả, đánh giá cho điểm.
– Nên cho điểm theo yêu cầu: Đúng, nhanh (đẹp).
– Tính tổng điểm của từng nhóm và công bố kết quả.
– Nhận xét thái độ của người tham gia chơi và rút kinh nghiệm.
– Thưởng, phạt (tuyên dương)
– Kết thúc: giáo viên hỏi xem học sinh đã học được những gì qua trò chơi hoặc giáo viên tổng kết lại những gì cần học được qua trò chơi.
4.3. Hình thức tổ chức trò chơi vận động
Trò chơi vận động được tổ chức phải nhằm mục đích phát triển các tố chất thể lực cho các em nên tất cả các em đều tham gia, tùy thuộc loại trò chơi mà chia lớp ra các đội hợp lí theo sĩ số lớp. Trò chơi có thể tập hợp hình tròn, hàng dọc, hàng ngang. Khi chia lớp thành các đội chơi nên chia làm 4 đội, các em tự đặt tên cho đội của mình theo những cách sau (đội chơi tập hợp hàng dọc): Thứ nhất, chia theo tổ. Thứ 2, chia ngẫu nhiên theo số: giáo viên cho học sinh điể số theo chu kì 1,2,3,4; các em cùng số sẽ về một nhóm. Thứ 3 là chia theo biểu tượng: ví dụ như: giáo viên chuần bị các ngôi sao xanh, đỏ, tím, vàng và phát cho mỗi em, khi đó em nào có ngôi sao cùng màu thì về môt đội và màu sắc là tên của đội. Các đội sẽ bốc xăm và thi với nhau, những đội nào thua sẽ bị phạt theo yêu cầu của đội thắng. Lưu , không coi trọng thắng thua, hình phạt không quá sức với học sinh.
5. Đề xuất một số trò chơi vận động nhằm phát triển các tố chất thể lực cho học sinh tiểu học
5.1. Trò chơi “Cướp cờ”
Mục đích: Rèn luyện sức mạnh, nhanh và khéo léo
Chuẩn bị: Sân rộng (không có sỏi, đá), 8 cây cờ (tùy thuộc số lượng học sinh), còi, số (1-8) màu đỏ và màu trắng.
Hình thức: Chia lớp làm 4 đội (yêu cầu học sinh đặt tên cho đội mình).
Có 2 cách chơi trò chơi này:
Cách 1: Giáo viên cho mỗi lượt chơi là 2 đội có sĩ số bằng nhau, đứng hàng ngang 2 bên sau vạch xuất phát và vạch ranh giới nước. Ở giữa 2 đội, giáo viên cắm chụm 8 cây cờ.
Cách chơi: Các em đếm số thứ tự của các thành viên trong đội từ trái sang phải (mỗi em gắn với một số nhất định). Khi quản trò (giáo viên) hô số nào thì thành viên mang số đó của 2 đội chạy thật nhanh về phía chụm cờ lấy 1 cây cờ mang về nước mình. Khi một trong 2 em cướp được cờ thì em kia phải đuổi theo nếu chạm trúng bạn mà bạn đó chưa về tới nước thì bạn đó chết và em sẽ mang cờ về nước mình. Có thể cùng lúc hô từ 2 -3 số và có thể cướp 2-3 cây cờ. Sau 4 hiệp hô, đội nào cướp được nhiều cờ hơn thì là đội chiến thắng. Sau 2 lượt chơi 2 đội thua cuộc sẽ bị phạt. Đội thắng sẽ được thưởng (tuyên dương).
Cho các em chơi thử để các em hiểu cách chơi sau đó chơi thật. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Cách 2: Giáo viên cho mỗi lượt chơi là 2 đội có sĩ số bằng nhau, đứng hàng ngang 2 bên sau vạch xuất phát và vạch ranh giới nước. Sau lưng mỗi đội cắm 4 cây cờ theo hàng ngang đều nhau.
Cách chơi: Mỗi lượt chạy qua cướp cờ chỉ được 4 học sinh, mỗi lần chỉ lấy được 1 cây. Khi giáo viên thổi còi, 4 học sinh sẽ chạy qua hàng rào quân địch (những bạn còn lại) vào chỗ cắm cờ. Khi vào chỗ cắm cờ cờ rồi thì không ai có quyền bắt họ. Vào được rồi thì lấy một cây cờ về một cách ung dung. Nếu trong lúc chạy qua bị hàng rào quân địch chạm phải thì ở tù. Lần còi sau, nếu qua được hàng rào địch an toàn thì có thể lấy một cây cờ hoặc giải thoát một đồng độ của mình. Sau 5 hiệp còi, đội nào có tổng số tù binh và số cờ nhiều hơn sẽ là đội thắng cuộc. Sau 2 lượt chơi 2 đội thua cuộc sẽ bị phạt. Đội thắng sẽ được thưởng (tuyên dương). ( Cho các em chơi thử để các em hiểu cách chơi sau đó chơi thật)
* Đối với học sinh lớp 1,2,3 khoảng cách ngắn lại, đối với lớp 4,5 giữ nguyên hoặc tăng thêm.
5.2. Trò chơi “Vượt suối”
Mục đích: Rèn luyện sức nhanh và khéo léo
Chuẩn bị: Sân hoặc phòng không có chướng ngại vật và mát mẻ, còi, mảnh giấy ô vuông cạnh 25cm bằng cạt tông giả làm đá, kẻ 2 vạch song song giả là suối. Kẻ 2 vạch hai đầu, một bên là nhà, một bên là trường.
Cách 1: Chia lớp làm 2 đội, sắp theo hàng dọc.
Cách chơi: Khi có tiếng còi, các em lần lượt đi lên mảnh giấy để đi từ nhà đến trường. Khi đi không để chân ra ngoài miếng giấy, nếu bước lệch coi như bị ngã xuống nước thì về cuối hàng. Khi đi đến trường, giáo viên cho học sinh đứng sắp hàng dọc sang 2 bên. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy theo thứ tự từng em: Khi em này tới trường thì em khác mới qua suối. Đội nào qua tới trường hết nhanh nhất sẽ là đội chiến thắng. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
Cách 2: Không hạn chế số lượng, có thể chia làm nhiều đội bằng nhau. Mỗi học sinh cầm 2 tờ giấy, các đội xếp thành 2 hàng dọc ngay vạch xuất phát, vạch đích cách vạch xuất phát 3 – 5m. Khi có lệnh còi, bạn đứng đầu của mỗi đội sẽ đi đến đích bằng cách: đặt miếng giấy xuống đất, chân trước dậm lên, sau đó đặt tiếp miếng giấy thứ hai xuống và bước chân còn lại lên đồng thời rút miếng giấy phía sau đặt lên trên. Cứ như thế, các em tiếp tục đi đến đích mang về cho đội minh 3 điểm. Khi bạn thứ nhất đến nơi, bạn tiếp theo của mỗi đội tiếp tục đi, cho đến người cuối cùng. Đội nào đến đích trước và nhiều điểm nhất là đội chiến thắng.
Luật chơi: Khi bước đi, một chân phải dậm trên giấy, còn chân kia không chạm đất. Nếu chạm đất sẽ bị trừ 1 điểm.
* Cách 1 đối với các em lớp 1,2,3. Cách 2 cho lớp 4,5
5.3. Trò chơi “Chiếm vị trí”
Mục đích: Chủ yếu là rèn sức nhanh cho các em.
Chuẩn bị: Trên sân vẽ một số vòng tròn đường kính sao cho 1 đến 5 học sinh đứng, tìu vào sĩ số học sinh mà ta vẽ số lượng vòng trò (số vòng tròn ít hơn số học sinh).
Hình thức: Cả lớp (tập hợp vòng tròn)
Cách chơi: Quản trò cho cả lớp đi theo chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa hát. Khi quản trò hô “vào 3” (một số bất kì từ 1 – 5), các em nhanh chóng vào vòng tròn sao cho số người có trong vòng tròn là 3. Em nào không tìm được vòng tròn sẽ vào giữa vòng tròn chờ chịu phạt. Quản trò hô “ra”, các em ra vòng tròn lớn tiếp tục hát và đi theo vòng tròn.
* Trò chơi này, giáo viên để học sinh làm quản trò, như vậy trò chơi sẽ sinh động hơn.
5.4. Trò chơi “ Mắc xích bền bỉ”
Mục đích: Rèn sức nhanh, mạnh, bền và tinh thần đồng đội.
Chuẩn bị: Sân mát, không có chướng ngại vật, còi và 2 cành hoa cắm trong lọ (hoa không có gai) đặt 2 bên..
Hình thức: Theo tổ
Cách chơi: Hai đội ngồi cạnh nhau cách nhau 5m theo hàng ngang, phía trước 2 đội là cành hoa cắm trong lọ. Khi thổi còi, các em trong cùng một đội sẽ móc xích voeis nhau ( tức ngoắt cánh tay vào nhau) và bắt đầu nhảy cóc đến cành hoa. Đội này về tới đích cầm vật lên trước là đội thắng cuộc. Trong khi nhảy, đội nào bị đức mắc xích coi như thua cuộc. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
5.5. Trò chơi “Chuyển đồ vật tiếp sức”
Mục đích: Rèn sức nhanh, mạnh, bền và khéo léo.
Chuẩn bị: kẻ 2 vạch (chuẩn bị, xuất phát) cách nhau 1m; cách vạch xuất phát đặt một chướng ngại vật cao 0,3 – 0,5 cm, cách chướng ngại vật kẻ một vòng tròn đường kính 0,4m, đặt trong đó một khúc gỗ dài 35cm, cách vòng tròn 3m kẻ một hình vuông cạnh 0,4m đặt trong đó một quả bóng, cách ô vuông 1m kẻ một vạch đích.
Hình thức: Chia lớp làm đội (đội A và đội B).
Cách chơi: Khi có lệnh của giáo viên, em đầu tiên chạy nahnh về phía trước, rồi nhảy qua chướng ngại vật, đến ôm khúc gỗ ở vòng tròn chạy đến ô vuông, thả xuống ôm quả bóng chạy đến đích quay người chạy ngược lại đến vòng tròn thả quả bóng, nhảy qua chướng ngại vật, chạy về vạch xuất phát đưa tay chạm tay người số 2, đi về tập hợp ở cuối hàng. Người thứ 2 như người thứ 1, ôm vật ở vòng tròn bỏ vào ô vuông, ôm vật ở ô vuông bỏ lại vòng trong như vậy cho đến hết. Nếu ai làm bóng hoặc khúc gỗ lăn ra ngoài ô vuông hoặc vòng tròn sẽ phạm quy và phải nhặt để lại cho đúng. Nếu ai xuất phát trước cũng phạm quy. Đội nào về trước và ít lần phạm quy thì đội đó thắng cuộc.
XEM THÊM 99+==> LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5.6. Trò chơi “Tung vòng vào đích”
Mục đích: Rèn luyện sự khéo léo, chính xác và kĩ năng tung vào đích.
Chuẩn bị: 3 chiếc cọc tròn đường kính 2cm cao 50cm (2 giá cắm cọc nếu sân trán xi măng) và 9 chiếc vòng tròn nhẹ đường kính 20cm bằng mây, tre hoặc nhựa. Kẻ trên sân 2 vạch: chuẩn bị và giới hạn cách nhau 50cm; vạch giới hạn cách cọc cờ 1,5m và giáo viên chuẩn bị thêm phần quà nho nhỏ cho nhà vô địch (tung cả 3 chiếc vòng vào trúng đích).
Hình thức chơi: Chia lớp làm 3 đội với số lượng bằng nhau (chia ngẫu nhiên theo cách điểm danh theo chu kì 1,2,3 các em cùng số thì vào cùng một đội) sắp thành hàng dọc cách cọc 2m. Yêu cầu 3 đội cử 3 đại diện làm trợ lí cho trọng tài (giáo viên) ghi lại số vòng vào đích của từng bạn trong đội.
Cách chơi: Chia cho mỗi đội 3 vòng tròn, học sinh mỗi đội lần lượt từ vị trí chuẩn bị vào vạch giới hạn và lần lượt tung 3 chiếc vòng vào chiếc cọc đã chuẩn bị sẵn. Nếu được vòng xâu vào cọc thì được 1 điểm, ra ngoài không được điểm. Tung vòng xong lên nhặt vòng đưa cho bạn tiếp theo. Cứ tiếp tục như vậy cho đến học sinh cuối cùng của mỗi đội, đội nào có số điểm nhiều hơn sẽ là đội chiến thắng. Cá nhân nào ném cả 3 chiếc vòng xâu vào cọc sẽ là nhà vô địch và được nhận quà đặc biệt. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
5.7.Trò chơi “ Chuyền bóng qua hầm”
Mục đích: Phát triển chủ yếu là sự nhanh nhẹn và khéo léo của đôi tay, giáo dục tinh thần tập thể.
Chuẩn bị: 2 quả bóng, còi
Hình thức chơi: Mỗi tổ là một đội (số lượng bằng nhau) nếu có học sinh dư thì cho em tham gia làm trọng tài phụ, giáo viên làm trọng tài chính.
Cách chơi: Các đội sắp thành hàng dọc, bước chân rộng hơn vai gập người thẳng chân không khụy gối tạo thành đường hầm. Khi có tiếng còi của trọng tài, học sinh đầu hàng cầm bóng chuyền qua giữa 2 chân ra sau cho học sinh thứ hai cứ tiếp tục cho đến học sinh cuối cùng, không để bóng chạm đất. Học sinh cuối hàng cầm bóng chạy về đầu hàng và đội nào nhanh hơn là đội chiến thàng. Nếu trong quá trình chuyền bóng đội nào làm rơi bóng coi như thua cuộc. Mỗi lượt 2 đội (bốc thăm), đội nào thắng sẽ được thưởng (chọn hình thức phạt cho đội thua).
5.8. Trò chơi “ Săn vịt”
Mục đích: chủ yếu rèn tố chất nhanh nhẹn và khả năng nhận chính xác định môi trường xung quanh.
Hình thức: cả lớp tập hợp vòng tròn, điểm danh theo chu kì 1- 2- 3 – 4
Cách chơi: Lượt 1: các em cùng số 1 vào trong vòng tròn và chọn 1 em làm thợ săn (nếu lớp trên 30 học sinh thì chọn 2 em làm thợ săn) còn lại làm vịt. Thợ săn rượt đuổi vịt trong vòng tròn, đánh vào người vịt bất cứ chỗ nào thì vịt chết ngồi xuống tại chỗ nếu vịt chạy ra ngoài vòng tròn coi như bị chết. Thợ săn không được đánh vịt khi người vịt dang tay vẫy vẫy giống như vịt vỗ cánh, chân phải co lên. Nếu co chân trái hoặc hai chân đều chạm đất thì thợ săn có quyền đánh vịt. Thời gian 1 phút thì đổi sang lượt 2, các em số 2 vào trong còn các em số 1 ra; lượt 3 đến lượt 4 tương tự chơi như lượt 1. Hết 4 lượt chơi, vịt nào bị đánh chết sẽ bị phạt. Thợ săn nào săn nhiều vịt thì được phong danh hiệu “Thợ săn tài ba”. Các em ở ngoài có thể cổ vụ cho thợ săn hoặc vịt.
* Trò chơi này có thể áp dụng cho học sinh lớp 1 đến lớp 5 và thay thế trò chơi “Mèo đuổi chuột” ở một vài tiết nhằm làm phong phú thêm trò chơi, học sinh tích cực hơn và hứng thú trong trò chơi. (Tiểu luận: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục)
5.9. Trò chơi “Chạy ba chân”
Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhẹn và khéo léo và tình thần hợp tác.
Chuẩn bị: còi, một số sợi dây mềm và bóng nhựa đường kính 20 cm và 4 cái giỏ
Hình thức chơi: Chia lớp làm 4 đội theo tổ, dùng dây cột 2 chân của 1 cặp, sắp theo hàng dọc cách giỏ 2m.
Cách chơi: Cặp đầu tiên cầm 1 quả bóng bằng 2 tay (mỗi em 1 tay) đứng vào vị trí xuất phát. Khi có hiệu còi, cặp đó cầm bóng chạy nhanh về phía cái giỏ và bỏ bóng vào. Nếu bóng vào giỏ thì được năm điểm. Nếu cặp đó cầm bóng một tay hoặc hai tay của cùng một người thì bóng không tính điểm. Khi cặp thứ nhất bỏ bóng thành công vào giỏ thì đội tiếp theo đến vạch xuất phát và chạy về phía giỏ như cặp đầu tiên. Tương tự như vậy, cho đến cặp cuối cùng của mỗi đội. Đội nào xong sớm nhất được cộng 10 điểm, về nhì 5 điểm còn về ba, tư không có điểm. Kết thúc trò chơi, đội nào có số điểm cao nhất sẽ là đội vô địch được nhận phần thưởng (giáo viên chuẩn bị như: gói kẹo, gói bánh…).
5.10. Trò chơi “Chim bay cò bay”
Mục đích: Rèn luyện tố chất nhanh nhẹn và nhận định chính xác đối tượng.
Chuẩn bị: Sân bãi rộng sạch và mát, tên các con vật bay được và không bay được.
Hình thức chơi: cả lớp (tập hợp vòng tròn).
Cách chơi: Giáo viên đứng giữa vòng tròn hô to tên con vật với tốc độ hô tăng dần. Nếu loài nào bay được thì học sinh giơ hay tay lên (loài có cánh). Nếu loài nào không bay được thì đứng yên không được nhúc nhích. Nếu học sinh nào phản xạ không nhanh hoặc làm sai sẽ bị bắt Sau 2 lượt hô, giáo viên chọn một học sinh làm quản trò. Học sinh nào bị bắt vào trong giữa vòng tròn đứng. Sau nhiều lần hô, học sinh nào bị bắt sẽ bị phạt theo yêu cầu của những học sinh ngoài vòng.
- Lưu ý: Giáo viên phải lựa chọn hình phạt nhẹ phù hợp với lứa tuổi đó.
Đối với lớp 1, 2 thì giáo viên làm quản trò suốt cuộc chơi.
Đối với lớp 3, 4, 5 thì cho học sinh làm quản trò nhằm rèn cho học sinh khả năng chỉ huy, tổ chức trò chơi và các em sẽ mạnh dạn, tự tin đứng trước đám đông.
Trên đây là tiểu luận môn Sáng kiến kinh nghiệm đề tài: Thiết kế một số trò chơi vận động cho học sinh tiểu học trong môn Thể dục, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học Sáng kiến kinh nghiệm: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.
Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562