Tiểu luận Phân tích thực trạng các chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta

Rate this post

Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta. Liên hệ một chính sách kinh tế cụ thể được thực hiện tại địa bàn tỉnh Bình Dương là chủ đề chính mà AD chia sẻ cho các bạn trong bài viết này. Tham khảo thêm Trọn bộ bài mẫu Tiểu luận hay


 

Mở đầu Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế

Chính sách kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi Nhà nước trong quá trình hội nhập và phát triển, đặc biệt đối với Việt Nam là nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau hàng thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Chính vì vậy, ngay sau khi đổi mới với những thuận lợi và khó khăn đan xen cả ở trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn đưa ra các chính sách kinh tế phù hợp nhằm từng bước đưa đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển nhanh và bền vững hơn. Qua chính sách đúng đắn và kịp thời đó đã góp phần mang lại những kết quả quan trọng làm thay đổi to lớn diện mạo của đất nước cũng như từng bước nâng cao đời sống nhân dân.

Cùng với nhân dân cả nước nói chung, trong những năm qua chính quyền tỉnh Bình Dương nói riêng đã thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các chính sách kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra, kinh tế tăng trưởng vượt bậc, các chính sách về thuế, về thương mại, tiền tệ, đầu tư ngày càng đạt được nhiều kết quả quan trọng, từ một địa phương chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, Bình Dương vươn lên trở thành tỉnh có giá trị sản lượng một số ngành như công nghiệp, dịch vụ thương mại cao tại khu vực phía Nam và trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế như công tác cải cách thuế đã đạt được những thành công đáng kể, song nguồn thu ngân sách vẫn không đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, tình trạng thâm hụt ngân sách vẫn còn tái diễn; trong quá trình vận dụng chính sách thương mại quốc tế vẫn còn thiếu lộ trình chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, chưa gắn kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa của doanh nghiệp và của nền kinh tế chưa theo kịp yêu cầu hội nhập. Tỉ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp, trong khi tỉ lệ xuất thô còn cao; về chính sách đầu tư, môi trường đầu tư vẫn còn kém hấp dẫn so với một số nước trong khu vực. Chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và làm rõ thực trạng các chính sách kinh tế có ý nghĩa quan trọng và hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Qua đó nắm được thực trạng quá trình áp dụng các chính sách kinh tế; những khó khăn, bất cập; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình áp dụng các chính sách kinh tế trên địa bàn. Với những lý do nêu trên, học viên lựa chọn chủ đề Phân tích thực trạng các chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta. Liên hệ một chính sách kinh tế cụ thể được thực hiện tại địa bàn tỉnh Bình Dương làm tiểu luận kết thúc môn học.

XEM THÊM ⇒ Dịch vụ viết thuê Tiểu luận

Nội dung Phân tích thực trạng chính sách kinh tế

1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA

1.1. Khái niệm chính sách kinh tế của Nhà nước

Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, chính sách kinh tế là hệ thống các quan điểm, công cụ và phương thức mà nhà nước sử dụng để can thiệp vào nền kinh tế thị trường nhằm thực hiện một hoặc một số mục tiêu kinh tế vĩ mô nhất định.

Như vậy, chính sách kinh tế thực chất là công cụ quản lý kinh tế mang tính hệ thống của nhà nước, với hai bộ phận cơ bản cấu thành là các mục tiêu kinh tế – xã hội cần đạt được và hệ thống phương tiện, phương thức mà nhà nước sử dụng để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Cũng như công cụ quản lý kinh tế của nhà nước nói chung, trong cơ chế vận hành của chính sách kinh tế thì chủ thể tác động là hệ thống các bộ, ban, ngành và cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ trung ương đến địa phương; đối tượng tác động là mọi tổ chức và cá nhân đang tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường.

Trong bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế tác giả cũng đề cập Nhà nước ta  đang có một số chính sách kinh tế cơ bản như: chính sách tài khoá; chính sách tiền tệ; chính sách thương mại quốc tế và chính sách đầu tư.

1.2. Thực trạng các chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta

1.2.1. Những kết quả đạt được trong vận dụng các chính sách kinh tế của Nhà nước ta

Cho đến nay, nhìn tổng thể, hoạt động quản lý nền kinh tế của nhà nước đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu và rộng. Nền kinh tế tương đối ổn định, ứng phó có hiệu quả với các biến động của kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng duy trì mức khá cao trong thời gian dài, việc làm và thu nhập của dân cư được cải thiện, vị thế của đất nước không ngừng được nâng lên trên trường quốc tế… tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của quá trình vận dụng các chính sách kinh tế của nhà nước ta vào thực tiễn đổi mới nền kinh tế quốc dân, với những thành công được tác giả trình bày trong bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế cụ thể sau:

  • Một là, chính sách tài khoá đã từng bước đi vào chiều sâu. Thuế và chi ngân sách nhà nước được luật hoá đầy đủ. Cải cách hệ thống thuế đã trải qua nhiều giai đoạn và cho đến nay nước ta đã có hệ thống thuế khá hiện đại, tương đồng với các nước trong khu vực. Đặc biệt, nhà nước đã vận dụng hiệu quả chính sách tài khóa nhằm “kích cầu” giúp nền kinh tế vượt qua tình trạng trì trệ do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới trong hai giai đoạn: 1998 – 2002 và 2009 – 2012.
  • Hai là, chính sách tiền tệ đã được nhà nước ta từng bước vận dụng linh hoạt, phù hợp với cơ chế thị trường, giúp kiểm soát khá hiệu quả tình trạng lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô cho nền kinh tế. Cụ thể là, ngân hàng nhà nước đã chuyển hẳn từ chế độ lãi suất cố định được áp đặt theo mệnh lệnh hành chính sang chế độ lãi suất thị trường có kiểm soát, chủ động trong thực thi chính sách tiền tệ, với các công cụ được sử dụng ngày càng linh hoạt, tạo tiền đề để kiểm soát thành công tình trạng lạm phát bùng nổ ở nước ta trong hai giai đoạn: 1987-1993 và 2008-2009.
  • Ba là, chính sách thương mại quốc tế đã dần chuẩn hoá theo pháp luật quốc tế. Trên cơ sở đó, nhà nước đã thiết lập các quan hệ kinh tế đối ngoại thuận lợi cho việc mở rộng xuất, nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Thành công trong vận dụng chính sách thương mại quốc tế đã đưa nước ta lên thứ hạng cao trong xuất khẩu một số hàng hoá và chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang nền kinh mở cửa và hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới.
  • Bốn là, chính sách đầu tư đã từng bước hướng vào khuyến khích mạnh mẽ đầu tư tư nhân và nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công. Theo đó, Nhà nước đã không ngừng điều chỉnh chính sách đầu tư tư nhân theo hướng thống nhất về “một chính sách chung” nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, thích nghi với tình hình biến động của kinh tế thế giới, tạo môi trường thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài và khai thác nguồn lực trong dân cư phục vụ phát triển đất nước. Chính sách đầu tư công cũng đã được hoàn thiện từng bước theo hướng tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào lĩnh vực hạ tầng và sản xuất hàng hoá công cộng. Đến nay, tỉ trọng đầu tư công đã và đang có xu hướng giảm dần xuống, trong khi đầu tư vào các công trình hạ tầng trọng điểm có xu hướng tăng lên rõ rệt, đặc biệt là hệ thống giao thông. Ngoài ra, các bạn cũng có thể tham khảo Tiểu luận Con đường lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam

1.2.2. Những hạn chế, bất cập trong bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế

Bên cạnh những thành công nổi bật nêu trên, quá trình vận dụng chính sách kinh tế của nhà nước trong vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập nhất định sau đây:

– Về chính sách tài khóa: Mặc dù cải cách thuế đã đạt được những thành công đáng kể, song nguồn thu ngân sách vẫn không đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, tình trạng thâm hụt ngân sách duy trì ở mức khá cao trong nhiều năm (bình quân hàng năm bội chi xoay quanh 5% GDP) kéo theo nợ công đang dần tiệm cận đến “trần” giới hạn an toàn. Thực trạng này là hệ quả tổng hợp của các hạn chế liên quan đến cả thu và chi ngân sách của nhà nước. Cụ thể là, các chính sách thuế cho đến nay đã được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của nền kinh tế, song vẫn còn những bất cập, chưa khai thác hết các nguồn thu và chưa hoàn toàn bảo đảm sự công bằng giữa những người nộp thuế. Việc sử dụng ngân sách nhà nước kém hiệu quả còn do chịu ảnh hưởng của quan điểm phân chia ngân sách nhà nước theo kiểu bao cấp, bình quân, dàn đều. Ngân sách nhà nước còn bao cấp không rõ ràng cho hệ thông quá lớn các cơ quan hành chính sự nghiệp. Chi đầu tư phát triển mang lại hiệu quả thấp do tình trạng thất thoát, lãng phí còn phổ biến.

– Về chính sách tiền tệ: Mặc dù chính sách tiền tệ đã có những thành công nhất định trong vai trò kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song từ thực tiễn cũng cho thấy rằng, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế vẫn chưa vững chắc và lạm phát vẫn còn là nguy cơ hiện hữu. Thực trạng này bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu đó là cơ chế điều hành của Ngân hàng nhà nước còn mang tính hành chính áp đặt; các biện pháp điều tiết thông qua thị trường chưa kịp thời và còn mang tính đối phó, thiếu chủ động; chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá phối hợp với nhau chưa đồng điệu và nhất quán.

– Về chính sách thương mại quốc tế: Nền kinh tế nước ta đã đạt được một bước tiến khá dài trong quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế, tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng chính sách thương mại quốc tế nước ta vẫn còn thiếu lộ trình chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, chưa gắn kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, của doanh nghiệp và của nền kinh tế chưa theo kịp yêu cầu hội nhập. Tỉ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp, trong khi tỉ lệ xuất thô còn cao. Trong những năm gần đây, mặc dù tình trạng nhập siêu đã được đẩy lùi nhưng khả năng nền kinh tế tái nhập siêu trong những năm tiếp theo là rất cao. Thiếu chính sách và biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh. Quyền sở hữu công nghệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị vi phạm khá phổ biến. Các giải pháp tạo dựng năng lực ứng phó quốc gia như thực thi các biện pháp tự vệ trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết tranh chấp ở nước ngoài chưa được chú trọng.

– Về chính sách đầu tư: Bên cạnh những thành công ấn tượng về đổi mới quản lý đầu tư công và thu hút đầu tư tư nhân nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, thì việc hoạch định và thực hiện chính sách đầu tư ở nước ta hiện nay đang gặp những trở ngại và hạn chế nhất định triển khai cẩn thận ở bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế như sau:

  • Chất lượng công tác quy hoạch thấp, quản lý đầu tư công còn kém và chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy đã có cố gắng đầu tư, song kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
  • Môi trường đầu tư vẫn còn kém hấp dẫn so với một số nước trong khu vực. Chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn; chưa chủ động khai thác vốn đầu tư quốc tế.
  • Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, chủ yếu đầu tư theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào đầu tư chiều sâu, vào các ngành có giá trị tăng thêm cao và tạo nhiều việc làm. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn mang tính dàn trải, thất thoát, hiệu quả còn thấp. Một số công trình lớn, quan trọng cấp quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất của một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm.
  • Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được các thế mạnh để đi nhanh hơn vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Chính sách hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu và sự liên kết vùng chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả thấp.
  • Các nguồn lực của đất nước như tài nguyên, đất đai và nguồn nước chưa được sử dụng có hiệu quả, còn bị lãng phí, thất thoát và ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng. Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng, nhưng chưa được phát huy.

Hệ quả là, tăng trưởng kinh tế của nước ta thời gian qua chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động tăng chậm và còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu, chi phí kinh doanh cao, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng thấp.

Ngoài những hạn chế của từng chính sách cụ thể đã nêu trên, việc xây dựng các chính sách kinh tế còn chậm, một số nội dung của chính sách kinh tế lạc hậu, không ổn định, thiếu tính liên kết giữa mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn. Bên cạnh đó, sự phân cấp thực hiện chính sách kinh tế vẫn còn chưa thật hợp lý giữa trung ương và địa phương.

1.2.3. Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế: Nguyên nhân của hạn chế

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc vận dụng chính sách kinh tế của Nhà nước chưa được như mong muốn. Nguyên nhân khách quan chủ yếu là nước ta chưa có nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao. Dân cư chưa có tập quán giao dịch theo các nguyên tắc thị trường có tổ chức, cơ sở vật chất cho quản lý nhà nước về kinh tế còn thiếu thốn,… Trong bối cảnh vừa xây dựng, vừa quản lý nền kinh tế thị trường, nhà nước phải xây dựng các chính sách kinh tế theo cách ứng phó nên có tính ngắn hạn và thiếu đồng bộ.
Mặt khác, sau khi ra khỏi chế độ bao cấp, người dân buộc phải tự tìm kiếm mọi hình thức mưu sinh trong khuôn khổ chưa có kinh nghiệm và tập quán tham gia thị trường nên dẫn đến các hành vi tự phát, kinh tế ngầm, khó quản lý. Nhiều chủ thể kinh tế lợi dụng cơ hội nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, tái cấu trúc để hoạt động đầu cơ, trục lợi khiến các quan hệ kinh tế càng thêm phức tạp, chất gánh nặng lên hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước.
Mặc dù yếu tố khách quan gây ra hạn chế trong vận dụng chính sách kinh tế là chủ yếu, nhưng nguyên nhân chủ quan từ phía nhà nước cũng không kém phần quan trọng. Một mặt, những hạn chế yếu kém trong vận dụng chính sách kinh tế của nhà nước ta xuất phát từ tình trạng lý luận về quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường lạc hậu khá xa so với thực tiễn. Việc lúng túng trong xác định các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của chính sách kinh tế phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới tư bản chủ nghĩa đã khiến quá trình cải cách không kiên quyết, chờ đợi sự đồng thuận quá lâu. Những chỉ dẫn quá chung của lý luận về xã hội chủ nghĩa khiến các nhà hoạch định chính sách kinh tế nhiều khi không nhất quán trong mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu.
Nguyên nhân chủ quan tiếp theo là năng lực của bộ máy và công chức nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu. Một mặt, đa phần cán bộ quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước chưa được đào tạo bài bản và chưa có kinh nghiệm thực tế trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, khi chế độ bao cấp chung bị xóa bỏ, thu nhập của công chức thấp, chính sách cán bộ chậm điều chỉnh theo tình hình mới đã khiến một số công chức chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm bóp méo chính sách kinh tế của nhà nước trong cả khâu hoạch định lẫn thực thi.
Một nguyên nhân nữa là quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách kinh tế của nhà nước chưa thật hợp lý. Đa phần các chính sách kinh tế do chính cơ quan quản lý nhà nước soạn thảo, ban hành và tổ chức thực hiện, ít khi lấy ý kiến đóng góp của các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong một vài trường hợp có lấy ý kiến nhưng nặng tính hình thức, chính vì thế chính sách kinh tế có xu hướng bị quan liêu hóa, không nhận được sự hưởng ứng của dân chúng. Đừng chấn chừ, tham khảo ngay Tiểu luận Triết học Mác – Lênin về vai trò quần chúng nhân dân

2. Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế: Thực tiễn tại tỉnh Bình Dương

2.1. Những kết quả đạt được

Trong những thập niên qua, Bình Dương là tỉnh đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ trương đường lối chính sách của Đảng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Nền kinh tế của tỉnh Bình Dương trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ từ một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp sang một tỉnh phát triển mạnh mẽ về công nghiệp và tiến nhanh đến con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, tỉnh Bình Dương đã phát huy những mặt mạnh và tiềm năng vốn có của mình đã đạt được những thành tựu về kinh tế vững chắc, trong đó các chính sách về tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại quốc tế hay chính sách đầu tư đều được Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chú trọng áp dụng và thực hiện đạt được những kết quả nổi bật. Trong đó, điển hình có thể nhắc tới là thương mại quốc tế và chính sách đầu tư với những kết quả đạt được như sau:

Xúc tiến đầu tư thương mại là hoạt động quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước nói chung và các địa phương nói riêng. Trong những năm qua, Bình Dương không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời luôn quan tâm giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư và doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và hợp tác đầu tư. Năm 2018, Bình Dương là địa phương đầu tiên của Việt Nam chính thức được vinh danh là một trong 21 thành phố, khu vực có chiến lược phát triển thành phố thông minh tiêu biểu của thế giới năm 2019. Với môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn cùng sự lãnh đạo, chú trọng triển khai các hoạt động đối ngoại trọng tâm, tỉnh Bình Dương thời gian qua tiếp tục giữ vững vị thế năng động trong hội nhập, thu hút nhiều nguồn lực đầu tư để phát triển.

Dấu ấn đối ngoại nổi bật của tỉnh có thể kể đến là năm 2018, tỉnh Bình Dương đăng cai tổ chức thành công 2 sự kiện đối ngoại quan trọng mang tầm quốc tế đó là Hội nghị Hiệp hội đô thị khoa học thế giới WTA – Bình Dương và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Horasis. Đây là cơ hội thuận lợi cho tỉnh Bình Dương được trao đổi, chia sẻ và học tập kinh nghiệm cũng như giới thiệu về tiềm năng, cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn 350 lãnh đạo cấp cao của các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn đến từ 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã tới Bình Dương dịp này.

Với môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn cùng sự lãnh đạo, chú trọng triển khai các hoạt động đối ngoại trọng tâm, tỉnh Bình Dương thời gian qua tiếp tục giữ vững vị thế năng động trong hội nhập, thu hút nhiều nguồn lực đầu tư để phát triển. Tính đến nay, Bình Dương đứng thứ 3 cả nước (sau TPHCM và Hà Nội) về thu hút vốn đầu tư nước ngoài với 3.644 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 33 tỷ USD. 6 tháng đầu năm 2019, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của tỉnh Bình Dương đạt gần 1,5 tỷ USD, tăng 70% so với cùng kỳ năm 2018, vượt 3,5% so với chỉ tiêu năm 2019. 

Trong năm 2020, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức do đại dịch Covid-19, song tỉnh Bình Dương vẫn nỗ lực duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 6,91%; GRDP bình quân đầu người đạt 150 triệu đồng/năm (tương đương 6.500 đô la Mỹ); cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp, duy trì và nâng cao giá trị nông nghiệp một cách hợp lý. Kim ngạch xuất khẩu đạt 27 tỷ 443 triệu đô la Mỹ; kim ngạch nhập khẩu đạt 21 tỷ 466 triệu đô la Mỹ; thặng dư thương mại của tỉnh đạt gần 6 tỷ đô la Mỹ… Với môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn, Bình Dương đã và đang là điểm đến tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài. Lũy kế đến cuối tháng 02/2021, tỉnh đã thu hút được gần 4.000 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký gần 35,8 tỷ đô la Mỹ, đứng thứ 3 cả nước về thu hút FDI, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Cụ thể, về đầu tư Trung Quốc, toàn tỉnh hiện có 432 dự án đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc với tổng số vốn trên 1,3 tỷ đô la Mỹ, đứng thứ 9 trong số 65 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Bình Dương. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất, gia công đồ gỗ gia dụng, sắt thép, linh kiện điện tử và các sản phẩm đồ điện gia dụng… Còn về đầu tư của Nhật Bản toàn tỉnh có 323 dự án đầu tư với tổng số vốn trên 5,7 tỷ đô la Mỹ, đứng đầu trong số 66 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại tỉnh Bình Dương.

Như vậy, khi tham khảo bài mẫu Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế có thể thấy hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và Bình Dương nói riêng trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện theo xu thế chung của cả nước, Bình Dương đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới và đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nói chung và chính sách đầu tư nói riêng trong quá trình đổi mới.

2.2. Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, tác giả cũng đưa đến những mặt còn tồn tại lẫn còn hạn chế trong bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế, trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách kinh tế nói chung và chính sách đầu tư nói riêng Bình Dương cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế sau:
Một là, nhà đầu tư chậm triển khai dự án do khó khăn về tài chính, nên không triển khai dự án hoặc triển khai rất chậm, tiến độ không đảm bảo.
Hai là, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, ngân sách đầu tư còn hạn chế, nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa đảm bảo, phần nào gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực như môi trường, quy hoạch, xây dựng…
Ba là, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn do vướng mắc về cơ chế, chính sách. Mặc khác, giá bồi thường về đất và tài sản trên đất phải sát với giá thị trường nên người dân một số nơi không đồng thuận về giá và dẫn đến khiếu nại kéo dài; việc kê biên còn xảy ra thiếu sót, việc áp giá bồi thường chưa chính xác, vướng mắc kéo dài dẫn đến việc bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư chậm trễ.
Bốn là, thủ tục hành chính và cơ chế một cửa tại Ban Quản lý các Khu công nghiệp nói riêng và các khu vực được đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói chung thuộc thẩm quyền của nhiều sở, ban ngành có liên quan khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian để làm thủ tục. Mặc dù, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều cải cách về quy trình, thủ tục nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nhưng việc thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục kết quả vẫn chưa được cải thiện.
Năm là, khan hiếm nguồn nhân lực qua đào tạo, chất lượng cao, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư. Hạn chế cần được khắc phục sớm trong điều kiện tỉnh tiếp nhận ngày càng nhiều dự án, đặc biệt là dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy mô ngày càng lớn và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ tay nghề của nguồn nhân lực. Chưa dừng ở đó, AD còn muốn các bạn tham khảo thêm chủ đề Tiểu luận Vấn đề mê tín dị đoan ở Việt Nam hiện nay

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Có một số nguyên nhân chủ yếu được trình bày ở Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế như sau:
– Nền kinh tế xuất phát điểm thấp, từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Vì vậy khi chuyển đổi dần sang nền kinh tế thị trường gặp nhiều khó khăn. Người dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp với hình thức canh tác đơn giản, khi chuyển đổi sang phương thức sản xuất hiện đại gặp nhiều khó khăn và chưa thích nghi với các giao dịch theo các nguyên tắc thị trường mới.
– Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước hiện nay đã được đào tạo và có số lượng khá đông nhưng còn hạn chế về năng lực, bất hợp lý về cơ cấu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
– Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư chưa đồng bộ và chặt chẽ dẫn đến tình trạng nhiều dự án chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, gây khó khăn cho chủ đầu tư trong việc hoạch định cũng như đấu thầu hiệu quả.

3. Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế: Giải pháp

3.1. Hoàn thiện quy hoạch tại các khu vực đầu tư của tỉnh Bình Dương

– Đôn đốc chủ đầu tư triển khai xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước thải, trồng cây xanh, hạ tầng giao thông và xây dựng các công trình dịch vụ như khu văn phòng, công trình văn hoá – dịch vụ, đặc biệt là chuẩn bị quỹ đất sạch để đầu tư và kêu gọi đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân theo chủ trương của Tỉnh.
– Tập trung thu hút đầu tư những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao, phát triển công nghiệp sạch để tăng giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường; Chú trọng các ngành công nghiệp, nhóm sản phẩm chủ yếu, phù hợp với tình hình thực tế của các huyện thị trên địa bàn tỉnh.

3.2. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển

– Quán triệt cơ chế quản lý “một cửa”, “một cửa liên thông” tập trung hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết nhanh chóng và thuận lợi các thủ tục hành chính về cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và các thủ tục hành chính khác liên quan đến các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh.
– Về chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, Uỷ ban nhân dân Tỉnh cần phân cấp mạnh về cho cấp huyện, vì đây là cơ quan trực tiếp quản lý và gần dân, sát dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác, tích cực hỗ trợ và phối hợp với nhà đầu tư trong công tác giải phóng mặt bằng, đầu tư hạ tầng xây dựng sẵn các nhà xưởng tạo điều kiện cho nhà đầu tư triển khai thực hiện ngay dự án.
– Ưu đãi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp được hưởng thuế suất ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi được tính liên tục trong 15 năm từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ dự án đầu tư. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo.

3.3. Tạo quỹ đất sạch và đầu tư cơ sở hạ tầng

– Kịp thời ban hành các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương theo hướng sát với giá thị trường và có lợi hơn cho người bị thu hồi đất, đời sống khu tái định cư mới tốt hơn nơi ở cũ.
– Thực hiện nhanh, giải quyết dứt điểm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cho người dân không để xảy ra hiện tượng kéo dài việc thực hiện bồi thường giải tỏa, không để người dân bị thiệt hại hơn nữa khi có đất bị giải tỏa, với phương châm “người dân trong khu vực giải tỏa phải có mức sống bằng hoặc cao hơn trước khi bị giải tỏa” hoặc khi đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng, người dân gây áp lực tăng giá bồi thường và các vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài gây khó khăn trong vấn đề cho thuê đất sau này.

3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

– Cán bộ quản lý nhà nước: Thực hiện tốt chính sách đào tạo và đào tạo lại bằng nhiều hình thức khác nhau, nhất là cho đội ngũ cán bộ, chuyên viên có triển vọng và đạo đức tốt, am hiểu luật pháp, thông lệ quốc tế và các kỹ năng liên quan đến lĩnh vực công tác.
Thực hiện tốt chính sách thu hút nhân tài về làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến phát triển công nghiệp như Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh, Sở Công Thương, Sở Kế hoạch và đầu tư thông qua chế độ tiền lương, thu nhập, ưu đãi về nhà ở và phương tiện làm việc, bố trí cán bộ đúng nơi, đúng lúc và đúng công việc. Tránh trường hợp, sau khi nhận công tác được vài tháng lại xin nghỉ vì các lý do trên, vừa tốn thời gian đào tạo vừa lãng phí nhân tài, dẫn đến tình trạng công việc thường xuyên trễ và hiệu quả công việc không có.
– Cán bộ quản trị doanh nghiệp: Đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp cần đáp ứng được những yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giải pháp đào tạo, bồi dưỡng có tầm quan trọng lớn, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương cần quan tâm chỉ đạo hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Theo đó, cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế thị trường, thông tin hội nhập quốc tế cho đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp để họ có đủ tự tin khi quyết định các phương án sản xuất kinh doanh và điều hành doanh nghiệp, cũng như thích ứng với sự thay đổi và phát triển. Bên cạnh đó, cần tuyển chọn và đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp kế cận, đủ tiêu chuẩn để thay thế số cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn trong các doanh nghiệp hiện có và thường xuyên tổ chức hội thảo, học tập kinh nghiệm, tham gia hội chợ ngành khoa học công nghệ để tiếp thu dây chuyền sản xuất mới, hiện đại vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
– Đào tạo đội ngũ công nhân: Uỷ ban nhân dân Tỉnh ban hành chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo theo đơn đặt hàng của các doanh ngiệp. Cần gắn lợi ích doanh nghiệp với quyền và lợi ích người lao động, để góp phần xây dựng hoạt động quản trị của doanh nghiệp trên lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần, chế độ đãi ngộ, tiền lương, chính sách bảo hiểm…; Khuyến khích người lao động chủ động sáng tạo, nghiên cứu giải pháp, sáng kiến mới nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp. Tất cả đều cần được đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đã tỉ mỉ đưa ra giải pháp cho từng cán bộ và đội ngũ công nhân trong bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế

Tiểu luận phân tích thực trạng chính sách kinh tế
Tiểu luận phân tích thực trạng chính sách kinh tế

3.5. Nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư và dịch vụ hỗ trợ đầu tư

– Nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư: Nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư là thật sự cần thiết, vì công tác xúc tiến đầu tư sẽ đưa thông tin đến các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần phát huy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý, điều hành doanh nghiệp; Nâng cấp các trang thông tin điện tử, các website cần đăng tải thông tin đầy đủ, thống nhất số liệu, minh bạch các thông tin cho nhà đầu tư bằng nhiều ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật… Đồng thời, thường xuyên cập nhật thông tin về cơ chế, chính sách chuyên ngành có liên quan đến hoạt động đầu tư nhằm cung cấp thông tin kịp thời đến nhà đầu tư; Ngoài ra, cần Liên kết website xúc tiến đầu tư của tỉnh với website của Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tổ chức xúc tiến đầu tư để tăng cường quảng bá hình ảnh, tiềm năng và cơ hội đầu tư).
– Nâng cao chất lượng công tác dịch vụ hỗ trợ đầu tư: Để công tác thẩm định dự án đầu tư đạt kết quả cao nhất trong thời gian tới, cần sử dụng một số biện pháp như: Thẩm định năng lực dự án phải đảm bảo tính khả thi, đúng quy trình, đảm bảo đúng quy định pháp luật, đạt được hiệu quả kinh tế xã hội; lựa chọn cán bộ có trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị để giao việc; thành lập bộ phận tư vấn đầu tư để hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn những ngành nghề đầu tư có triển vọng trong tương lai, nhưng đồng thời phải theo đúng quy định hướng dẫn và đúng quy hoạch phát triển của Tỉnh trong từng thời kỳ.

3.6. Cải thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành chính

Thành lập một tổ chuyên viên thăm dò ý kiến các nhà đầu tư đã đầu tư đến với môi trường đầu tư trên địa bàn Tỉnh để có những cải cách về môi trường đầu tư cho hợp lý. Bên cạnh đó, thực hiện công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các thủ tục hành chính (từ đăng ký thành lập doanh nghiệp cho đến quá trình cấp phép); Rà soát thường xuyên các thủ tục hành chính không còn phù hợp, để kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung đảm bảo tạo môi trường thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp.

Kết luận bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế

Như vậy qua bài Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế có thể thấy rằng các chính sách kinh tế nói chung, chính sách đầu tư nói riêng là những nội dung hết sức quan trọng được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân đặc biệt quan tâm. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, các chính sách kinh tế lại càng có ý nghĩa hết sức cần thiết. Chính vì vậy, để sử dụng đúng và hiệu quả các chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay là cả một quá trình của các nhà quản lý, lãnh đạo. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao để áp dụng một cách linh hoạt, sử dụng nhuần nhuyễn và đa dạng các chính sách cụ thể, để những chính sách này trở thành vũ khí tối ưu giúp nền kinh tế của mỗi địa phương từng bước đi lên, phát triển ngày càng đa dạng, mạnh mẽ và hiệu quả là một vấn đề được các địa phương nói riêng và Nhà nước nói chung đặc biệt quan tâm.
Qua nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy các chính sách kinh tế đã được Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, cùng các cấp chính quyền địa phương đặc biệt chú trọng, sử dụng đều được tác giả trình bày hẳn hoi trong bài mẫu Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế. Qua đó đã thu được những kết quả cụ thể, thể hiện tính đúng đắn của quá trình xây dựng và vận dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục; nhưng với tinh thần quyết tâm và sự đồng lòng thống nhất cao của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các cơ quan, ban ngành, đội ngũ cán bộ công nhân viên chức và người lao động trên địa bàn tỉnh, tin chắc rằng trong thời gian tới tỉnh Bình Dương sẽ từng bước khắc phục được những hạn chế trên và thực hiện đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, góp phần quan trọng vào thực hiện đầy đủ và có hiệu quả hơn nữa, tạo ra nguồn lực trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chung của địa phương.

DOWNLOAD


Hiện nay, các vấn đề về chính sách kinh tế dần được quan tâm nhiều hơn, cũng chính vì thế mà thường xuyên có những bài Tiểu luận về chủ đề. Mong rằng với bài mẫu Tiểu luận Phân tích thực trạng chính sách kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta. Liên hệ một chính sách kinh tế cụ thể được thực hiện tại địa bàn tỉnh Bình Dương sẽ giúp ích cho các bạn khi làm bài. Follow Viettieuluan để cập nhật sớm những chủ đề Tiểu luận hay và xuất sắc hơn.

Contact Me on Zalo