Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng là đề tài tiểu luận môn triết học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, còn nhiều bài tiểu luận liên quan thành tựu của vật lí học và tiểu luận về thế giới quan duy vật biện chứng, các bạn sinh viên có thể tìm kiếm trên chuyên mục Triết học.
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Triết Học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562
Chương 1. LÍ THUYẾT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
1. Khái niệm triết học và nguồn gốc của triết học
- Khái niệm “triết học” (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
Khái niệm triét học, xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại “philos – tình yêu” và “sophia – sự thông thái” ghép hai từ này lại thành “philosophia” – tình yêu đối với sự thông thái. Triết học khác với thần thoại, triết học là lý luận về thế giới, thể hiện thế giới quan bằng hệ thống các phạm trù, khái niệm. Triết học là một hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Thần thoại chủ yếu là tưởng tượng, hoang đường về thế giới. Tôn giáo là sự sự phản ánh thế giới một cách hư ảo trên cơ sở niềm tin tôn giáo.
- Nguồn gốc của triết học
Triết học xuất phát từ nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội: triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; Về nguồn gốc nhận thức, khi con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. Về nguồn gốc xã hội: khi lao động phát triển đến mức có sự phân chia lao động chân tay và lao động trí óc. Chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ. Triết học ra đời phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
XEM THÊM==> Dịch vụ viết thuê tiểu luận trọn gói giá rẻ
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học trong đời sống xã hội
- Chức năng thế giới quan của triết học
Thế giới quan là quan niệm của con người về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan có nhiều trình độ khác nhau: Thế giới quan tôn giáo, thế giới quan thần thoại, thế giới quan triết học. Triết học là hạt nhân của thế giới quan, là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan là nhân tố định hướng cho con người nhận thức thế giới xung quanh cũng như tự nhận thức mình, từ đó xác định thái độ, cách thức sinh sống. Trên cơ sở thế giới quan triết học, thế giới quan sẽ được biểu hiện thông qua kinh tế, chính trị đạo đức, nghệ thuật, khoa học…
- Chức năng phương pháp luận của triết học (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn, vận dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất,phương pháp luận của triết học là phương pháp luận chung nhất thể hiện: nó cung cấp cho chủ thể một trong những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo việc xác định phương pháp hợp lý, hiệu quả nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bất cứ lý luận triết học nào cũng thể hiện một phương pháp luận nhất định, chỉ đạo việc xây dựng và vận dụng phương pháp, nó định hướng cho con người tìm tòi, xay dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cho nên nó có ý nghĩa thành bại đối với hoạt đọng nhận thức và cải tạo thực tiễn. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
3. Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận.
– Triết học khái quát những thành tựu của các khoa học cụ thể
– Triết học là thế giới quan và phương pháp luận của các khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá những thành tựu đã đạt được, vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu những vấn đề cụ thể của khoa học. Theo A.Anhxtanh “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng dến sự phát triển của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”, chẳng hạn thời cổ đại triết học tự nhiên đã chỉ ra được bức tranh tổng quát về thế giới, có nhiều dự báo định hướng cho khoa học phát triển, thời trung cổ ở phương Tây triết học kinh viện cản trở khoa học phát triển, thời Phục hưng, Cận đại triết học đã góp phần to lớn vào sự phát triển của khoa học tự nhiên.
– Triết học có vai trò to lớn đối với rèn luyện tư duy của con người, theo Ph.Ăngghen “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
4. Khái niệm phép biện chứng
- Biện chứng và siêu hình
Ngoài vấn đề về mối quan hệ giữa vật và ý thức thì vấn đề quan trọng khác mà triết học quan tâm làm sáng tỏ là: các sự vật trong thế giới tồn tại như thế nào? Chúng hoàn toàn biệt lập với nhau hay phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau; hoàn toàn ở trong trạng thái tĩnh, ngưng đọng, “nhất thành bất biến” hay vận động, biến đổi không ngừng? Trong lịch sử triết học mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề này, nhưng suy cho cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
Quan điểm siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quyên mất đi sự vận động của những sự ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”[1].
Ngược lại, quan điểm biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy trạng thái động của sự vật , không chỉ “thấy cây” mà còn “thấy cả rừng”.
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: “Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một sự vật không thể vừa là chính nó vừa là cái khác nó, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau v.v.. Ngược lại, tư duy biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạch cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cái “vừa là… vừa là” nữa. Chẳng hạn, một vật hữu hình trong một lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A vừa không ở vị trí A; cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ lẫn nhau lại vừa không thể lìa nhau, v.v.[2].
Như vậy, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà cốt lõi của nó là là việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học; đồng thời đó cũng là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn chặt với cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp đối lập này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng.
Về nguồn gốc lịch sử, thuật ngữ “siêu hình” bắt nguồn từ chữ “metaphystque” tiếng Hi Lạp, theo đúng nguyên văn có nghĩa là “những gì theo sau vật lí học”. Arixtốt coi “metaphystque” là bộ phận quan trọng nhất trong học thuyết triết học của mình. Từ nửa cuối thế kỷ XV khoa học thực nghiệm bắt đầu phát triển. Khoa học tự nhiên đi sâu vào phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên thành những bộ phận riêng biệt cố định (giả định như đang ở trạng thái không vận động). Điều này thực sự đã đưa đến những thành tựu to lớn trong sự phát triển khoa học. Song phương pháp nghiên cứu này tạo ra thói quen xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời, bất biến – đó chính là phương pháp siêu hình. Phương pháp này dần dần đã chuyển từ khoa học tự nhiên sang triết học và thống trị trong tư duy triết học. Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII và sang thế kỷ XIX, khi việc nghiên cứu khoa học tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, khi khoa học chuyển sang giai đoạn nghiên cứu về quá trình phát sinh, phát triển của sự vật thì phương pháp siêu hình không thể đáp ứng được yêu cầu nhận thức khoa học được nữa. Cuộc khủng hoảng vật lí cuối thế kỷ XIX là một minh chứng về sự chi phối của quan điểm siêu hình trong nhận thức khoa học. Vì thế, tư duy siêu hình cần phải được thay thế bằng cách nhìn biện chứng về thế giới nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nghiên cứu khoa học.
XEM THÊM 999+ ==> KHO TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Thuật ngữ “biện chứng” cũng được hình thành từ thời Hy Lạp cổ đại với chữ “dialectic”, nghĩa là tranh luận có căn cứ. Khi đó, phép biện chứng được hiểu là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện ra mâu thuẫn trong cách lập luận của đối phương và bảo vệ quan điểm của mình. Platôn coi phép biện chứng là phương pháp “hồi tưởng” (nhận thức). Đó là nghệ thuật đối thoại dưới hình thức hỏi đáp hay đưa ra những ý kiến đối lập. Đến Hênghen, phép biện chứng được hiểu là học thuyết về mối liên hệ, về sự phát triển của thế giới.
- Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
Phép biện chứng tự phát thời cổ đại thể hiện trong “Thuyết âm – dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong học thuyết của nhiều nhà triết học Hi Lạp cổ đại (Hêraclít, Đêmôcrít, Arixtốt) Các nhà biện chứng thời kỳ này đã nhìn thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa không ngừng trong những sợi dây liên hệ vô cùng vô tận. Cách quan niệm như vậy căn bản là đúng đắn. Tuy nhiên, những quan niệm này còn hết sức nguyên thủy, ngây thơ, mang tính tự phát, mộc mạc, chỉ là kết quả của một trực kiến thiên tài chứ chưa phải là kết qủa của một sự nghiên cứu nghiêm túc và có hệ thống trên nền tảng khoa học.
Từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi mới có một nền khoa học tự nhiên thực sự. Tuy nhiên, do trình độ và nét đặc trưng của khoa học thời kỳ đó mà phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học, nhất là ở thế kỷ XVII – XVIII. Khi khoa học tự nhiên chuyển từ giai đoạn sưu tập các tài liệu sang giai đoạn chỉnh lí các tài liệu, đến giai đoạn nghiên cứu về các quá trình, về sự phát sinh và phát triển của các sự vật thì phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học nữa. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới. Và nền triết học cổ điển Đức ngay từ đầu đã phát triển theo tinh thần biện chứng. Phép biện chứng được bắt đầu với triết học của Cantơ và hoàn thiện với triết học của Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng của phép biện chứng. Nhà biện chứng lỗi lạc này đã xem xét toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử, tinh thần như một quá trình, tức là nghiên cứu chúng trong sự vận động và phát triển. Ông đã cố gắng để vạch ra mối liên hệ bên trong của sự phát triển đó. Phép biện chứng của Hêghen là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh, tuy vậy nó bị bao bọc trong giới hạn của thế giới quan duy tâm. Hêghen coi biện chứng là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”. “ý niệm tuyệt đối” trong quá trình vận động đã “tha hóa” thành giới tự nhiên và sau đó vận động trở về với chính bản thân mình trong triết học tinh thần (“ý niệm tuyệt đối” ban đầu). Như vậy, ở Hêghen sự phát triển biện chứng của thế giới hiện thực chỉ là thể hiện của sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi.
Triết học Hêghen còn bộc lộ mâu thuẫn giữa một bên là tư tưởng biện chứng, cách mạng và một bên là hệ thống quan điểm lý luận duy tâm, khép kín, bảo thủ.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán và gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí và kế thừa “hạt nhân hợp lý”, tức là tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen, từ đó sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. Hai ông chỉ ra rằng, những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua chỉ là sự phản ánh các sự vật hiện thực, do đó bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ là sự phản ánh biện chứng của hiện thực. Với quan niệm khoa học đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng từ chỗ là duy tâm thành duy vật – giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng.
Theo Ph.Ăngghen, phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến; khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của lịch sử loài người và của tư duy. Phép biện chứng duy vật nắm sự vật và phản ánh tinh thần của sự vật chủ yếu trong mối liên hệ lẫn nhau của chúng, trong sự phát sinh và tiêu diệt của chúng.
Như vậy, phép biện chứng duy vật là thành quả tư duy sáng tạo kỳ diệu của C.Mác, Ph.Ăngghen và được V.I.Lênin với thiên tài của mình đã bổ sung, hoàn thiện, làm cho nó trở nên sâu sắc và phong phú hơn. Phép biện chứng duy vật thực sự là một học thuyết mang tính khoa học và cách mạng hết sức sâu sắc và triển để. Phép biện chứng duy vật vừa là học thuyết về bản thể luận, vừa là học thuyết về nhận thức luận. Đó là học thuyết “về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”[3].
5. Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng
- Quan điểm duy vật về thế giới.
Triết học mácxít hình thành trên cơ sở khái quát những thành tựu khoa học, sự kế thừa có phê phán những thành quả của các học thuyết triết học cũ và tổng kết thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản cách mạng trong những thập niên đầu thế kỷ XIX. Triết học Mác gắn bó khăng khít với thực tiễn đấu tranh và sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản. Như các nhà lý luận mácxít đã khẳng định: Triết học Mác đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần.
Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng của thời đại, có lợi ích phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động. Vì thế, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động có thế giới quan thực sự của mình. Đó là thế giới quan khoa học và cách mạng, là vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu ttranh để giải phong giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn thế giới khỏi áp bức bóc lột và xây dựng một xã hội tốt đẹp. V.I.Lênin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” [4].
Triết học Mác là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, một hệ tư tưởng đã được luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của lịch sử. Vì vậy, nó nó có sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, giữa tính thực tiễn và tính lý luận. Nhờ đó mà triết học Mác mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Mác viết: “Các nhà triết học trước đây chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”[5]. Luận điểm đó của Mác nói lên thực chất, vai trò “kim chỉ nam” của triết học mácxít.
- Quan điểm duy vật về xã hội.
Những quan niệm duy vật về lịch sử của C. Mác đã đem đến cho loài người tiến bộ một công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
XEM THÊM 99+==> LỜI MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
6. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học
Trước khi triết học Mác đời, chủ nghĩa duy vật đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đạt được những thành tựu quan trọng. Các nhà duy vật trước Mác tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, góp phần vào việc xác lập quan niệm duy vật về thế giới, vào quá trình cải tạo thế giới hiện thực. Bên cạnh những thành tựu đạt được, chủ nghĩa duy vật cũ không tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế mang tính lịch sử sau đây:
– Tuy thể hiện lập trường, quan điểm duy vật trong việc xem xét giới tự nhiên nhưng lại duy tâm trong việc xem xét đời sống xã hội. Do hạn chế lịch sử, hạn chế về giai cấp nên chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội. Thực chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là học thuyết duy vật không triệt để, duy vật “một nửa”. Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc trong nền triết học cổ điển Đức đều là chủ nghĩa duy vật không triệt để.
– Do còn mang tính siêu hình, máy móc, trực quan nên không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức.
Nếu như chủ nghĩa duy tâm cường điệu vai trò của ý thức, tư tưởng đến mức coi ý thức sinh ra vật chất thì trái lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác lại hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của ý thức, không thấy được sự tác động vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Do chịu ảnh hưởng của quan điểm siêu hình và do thiếu quan điểm thực tiễn nên nhiều nhà duy vật trước Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc mà không thấy được tính biện chứng của quá trình phản ánh, tính năng động, sáng tạo của ý thức. Mác nhận xét rằng, khuyết điểm chủ yếu của chủ nghĩa duy vật cũ là thiếu quan điểm thực tiễn, do đó lý luận của nó mang tính trực quan và không thể giải quyết một cách khoa học, duy vật triệt để vấn đề cơ bản của triết học.
Khi khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất, triết học Mác đồng thời cũng chỉ rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song ý thức có tính độc lập tương đối, tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Không thấy được điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
- Thống nhất giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
Trước khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thường tách rời nhau. Mặc dầu trong nhiều học thuyết duy vật chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhưng do hạn chế về lịch sử và trình độ phát triển của khoa học lúc đó nên chủ nghĩa duy vật về cơ bản vẫn mang tính chất siêu hình.
Trong khi đó phép chứng lại được quan tâm nghiên cứu và phát triển trong một số hệ thống triết học duy tâm. Hêghen là người có công lao to lớn trong việc khôi phục và phát triển phép biện chứng, nhưmg nó lại được thể hiện trong cái vỏ bọc duy tâm, thần bí.
Để xây dựng học thuyết triết học duy vật biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, máy móc và phép biện chứng khỏi thế giới quan duy tâm, triết học mácxít đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Do đó, chủ nghĩa duy vật mácxít là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng mácxít là phép biện chứng duy vật. Duy vật và biện chứng là hai yếu tố không tách rời nhau, là hai đặc trưng nổi bật trong triết học Mác .
- Chủ nghĩa duy vật triệt để
Thiếu sót cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác là duy vật không triệt để, duy vật trong việc nghiên cứu giới tự nhiên nhưng lại duy tâm khi xem xét đời sống xã hội. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.ăngghen đã khắc phục một cách căn bản thiếu sót trên đây, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để. Đó là một cống hiến vĩ đại của C.Mác và Ph.ăngghen vào kho tàng lý luận triết học. V.I.Lênin viết: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên tới chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”[6]. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
- Tính thực tiễn cách mạng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần chỉ là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là kết quả của một quá trình nghiên cứu, tổng kết lịch sử, sự kế thừa có phê phán toàn bộ tư tuởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn lịch sử mới, được C.Mác, Ph.Ăngghen thực hiện một cách nghiêm túc, sáng tạo. Trong lịch sử triết học, lần đầu tiên Mác và Ăngghen đã đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận của mình, nhờ vậy mà hai ông đã không những thực hiện cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học mà còn tạo cơ sở vững chắc để khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, phê phán triệt để sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin chỉ ra rằng: “Trong thế giới, không có gì khác ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”[7]. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh”[8].
Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người trong hoạt động thực tiễn. Sự tác động qua lại giữa vật và ý thức chỉ có thể diễn ra trên cơ sở thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người cải biến sự vật trong hiện thực, nhờ đó mới cải biến được sự vật trong hình ảnh tư tưởng. Cái vật chất muốn được “di chuyển và cải biến trong bộ óc người” phải thông qua hoạt động thực tiễn. Ngược lại, ý thức tự bản thân nó sẽ không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Nhờ có hoạt động thực tiễn, con người mới có thể “vật chất hóa tư tưởng”, biến những chương trình, kế hoạch, mục đích của thành hiện thực vật chất.
Thực tiễn đã trở thành khâu trung gian nối liền giữa cái vật chất và tinh thần. Việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn làm triết học mácxít mang tính duy vật triệt để, không chỉ duy vật trong tự nhiên mà còn duy vật trong đời sống xã hội.
Chương 2. MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA VẬT LÍ HIỆN ĐẠI (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
1. Những thành tựu lớn lao của Einstein
Năm 1905 dựa trên khái niệm lượng tử, ông giải thích hiệu ứng quang điện (giải Nôbel năm 1921), công trình này cùng với nhiều công trình khác về lượng tử đã xếp Einstein vào những người đặt nền móng cho cơ học lượng tử. Cùng năm vào tháng 9 ông đã công bố bài báo khai sinh lý thuyết tương đối hẹp. ‘Newton, mong ngài hãy tha thứ ’ Einstein đã ngỏ lời xin lỗi như vậy khi lý thuyết tương đối hẹp đã phá bỏ tính tuyệt đối của không gian Newton vốn đã ngự trị trong tư duy khoa học trong hơn 2 trăm năm. Không gian và thời gian biến thành đa tạp 4 chiều Minkowski. Công thức nổi tiếng E = mc2 sau đó ra đời, mở đường cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân, bom nguyên tử và điện nguyên tử.
Năm 1916 ông đã xây dựng lý thuyết tương đối rộng. Nhà vật lý lý thuyết kiệt xuất người Nga Lev Landau đã nói đây là một trong những lý thuyết đẹp đẽ nhất mà con người có thể sáng tạo ra. Lý thuyết tương đối rộng nối liền không gian với vật chất trong phương trình mang tên Einstein :
Gmn = 8pGTmn
Gmn mô tả hình học của không gian, Tmn mô tả vật chất. Sau đó ông dành suốt cuộc đời còn lại (1926 – 1955) để xây dựng lý thuyết thống nhất hấp dẫn và điện từ.
Ông đã mất nhưng các ý tưởng của ông vẫn là kim chỉ nam cho vật lý ngày nay. Thiên tài vĩ đại Einstein làm cho người ta có cảm giác như ông là một người thừa hưởng được những tư tưởng sâu xa từ đâu đó để rồi chỉ cho chúng ta những bước nghiên cứu trong một hai thế kỉ. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
2. Chín vấn đề lớn của vật lý thế kỷ 21
Có thể nói những vấn đề lớn của vật lý thế kỷ 21 đêu nhằm mục đích thực hiện giấc mơ thống nhất của Einstein.
- Trong thiên nhiên còn tồn tại những đối xứng nào mới, những định luật nào mới.
Một số đối xứng BigBang, một trong các đối xứng như thế có thể là đối xứng mang tên siêu đối xứng (Supersymmetry). Đối xứng này là một yếu tố cơ bản của lý thuyết siêu dây. Các máy gia tốc sẽ kiểm nghiệm vai trò của siêu đối xứng trong lý thuyết thống nhất và xác định xem hạt Neutralio có thuộc vật chất tối hay không. Khối lượng các siêu hạt có thể liên quan đến trường Higgs.
- Chúng ta sẽ phải giải quyết sự bí ẩn của nănglượng tối như thế nào ?
Những quan trắc hiện đại chứng tỏ rằng có một bí ẩn đang gia tốc quá trình gian nở của vũ trụ. Một nguồn gốc khả dĩ của lực này là năng lượng chân không. Song những phép tính đã cho một trị số quá lớn 10 120 lần lớn hơn trị số quan trắc được. Trong phần lý thuyết dây chúng ta đã thấy được bức tranh phong cảnh của lý thuyết dây đã cho một cách giải thích. Rờt có thể năng lượng tối này có liên quan đến hạt Higgs. Nhiều dữ liệu thực nghiệm cho thấy rằng năng lượng tối có thể tương thích với hăng số vũ trụ của Einstein. Người ta cho rằng trường Higgs chiếm khoảng chân không. Năng lượg tối có thể có mối liên quan đến đối xứng và trường Higgs.
- Tồn tại chăng những chiều dư (extra dimensions )
Lý thuyết siêu dây có hy vọng thực hiện giấc mơ thống nhất của Einstein. Các siêu dây có tồn tại hay chăng ? Lý thuyết này đã dưa ra 6 đến 7 chiều dư ngoài 4 chiều không gian vậy có bao nhiêu chiều dư ? kích thước, hình dạng như thế nào ? Và những hạt gắn với chiều dư này là những hạt gì ? có tồn tại những chiều dư vĩ mô hay không ? chúng có những liên quan gì đến những lỗ đen ?
- Các lực trong thiên nhiên có thống nhất thành một lực duy nhất hay không ?
Rất có thể lực thống nhất này nối liền quark với lepton và có khả năng biến một loại hạt này sang một loại hạt khác.
- Vì sao có nhiều loại hạt đến thế
Các nhà vật lý đã xác định được 57 loại hạt, có phải chăng các hạt này là những nốt nhạc của siêu dây ? Chúng ta cũng đã tìm ra 3 gia đình ( và tại sao chỉ có 3) quark và lepton, vì sao khối lượng của chúng cách biệt nhau đến như vậy. Hạt neutrino cũng là một hiện tượng bí ẩn.
- Vật chất tối là gì ? Có thể chế tạo nó trong phòng thí nghiệm được không ?
Một phần lớn vật chất trong vũ trụ là vật chất tối, không có vật chất tối thì không có sao, có thiên hà, có sự sống. Vật chất tối đã giữ chặt vũ trụ. Chúng ta có thể chế tạo được vật chất tối trong các máy gia tốc. Siêu hạt nhẹ nhất trong siêu đối xứng, hạt nhẹ nhât chuyển động trong các chiều dư, hạt axion trong lý thuyết QCD, có thể thuộc về vật chất tối.
- Hạt neutrino sẽ cung cấp cho chúng ta những gì ?
Hạt neutrino là một hạt bí hiểm,chúng tương tác rất yêu với vật chất. Hàng tỉ hạt neutrino đi qua cơ thể chúng ta trong mỗi dây nhưng không để lai dấu vết gì. Sự tồn tại khối lượng của neutrino có thể dẫn đến một vùng vật lý mới chưa biết đến, có thể thuộc lý thuyết thống nhất.
- Vũ trụ đã hình thành như thế nào ?
Theo lý thuyết hiện đại vũ trụ được khai sinh từ một vụ nổ lớn cách đây chừng 14 tỉ năm, tiếp theo là một quá trình gian nở lạm phát. sau đó vụ nổ nguội dần và nhiều quá trình chuyển pha đã xẩy ra, những quá trình chuyển pha này có thể dựng lại trong phòng thí nghiệm nhờ những máy gia tốc năng lượng cao. Qúa trình giản nở lạm phát có thể bắt nguồn với một dạng năng lượng tối. Dạng năng lượng này có đóng vai trò gì trong lý thuyết thống nhất ? Có liên quan gì với các chiều dư ? Quá trình chuyển pha điện yếu đã gây nên sự bất đối xứng vật chất – phản vật chất. Trong quá trình chuyển pha ứng với sức động lực học lượng tử QCD, vật chất baryonic ngưng tụ thành dạng plasma của quark- gluon, người ta muốn kiểm nghiệm tất cả các qúa trình này trong phòng thí nghiệm.
- Điều gì đã xảy ra với phản vật chất ?
Tại thời điểm bigbang số lượng hạt và phản hạt bằng nhau. Song hiện nay chúng ta đang trong một thế giới hạt chứ không phải phản hạt. Điều gì đã xảy ra với các phản hạt ? Để có sự mất bình quân do đối xứng CP bị vi phạm. Nguồn gốc của vi phạm đối xứng CP có thể tìm thấy trong quark hay trong neutrino, trong các hạt Higgs, trong siêu đối xứng trong các chiều dư.
XEM THÊM ==> CÁCH LÀM TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐIỂM CAO
3. Hans Bethe: Người khám phá bí mật Mặt Trời (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
Hans Bethe là một trong những nhà vật lý lý thuyết lớn của thời đại chúng ta, người mà trong những năm 30 của thế kỉ trước đã tìm ra các chu trình phản ứng hạt nhân, khám phá bí mật nguồn năng lượng khổng lồ của những ngôi sao. Với công lao tính toán và giải thích sự dịch chuyển Lamb, ông được nhiều người coi là cha đẻ của môn lý thuyết lượng tử. Cuộc đời ông cũng mang nhiều nghịch lí. Con người gầy gò có nụ cười ốm yếu nhưng rất hài hước này là trưởng phân viện vật lý lý thuyết ở Los Alamos trong suốt giai đoạn Mỹ triển khai chương trình Mânhttan thời chiến. Đã từng là một nhân vật quan trọng tham gia chế tạo những quả bom nguyên tử đầu tiên, nhưng sau chiến tranh, Bethe lại trở thành một nhà hùng biện tài giỏi, đấu tranh phản đối vũ khí hạt nhân trong suốt gia đoạn đàm phán ở Geneve để đi tới hoà ước đông- tây giải trừ quân bị.
Sinh ngày 2/7/1906 ở Strasburg, Đức. Vào thời gian đó, trong vật lí thiên văn vẫn còn một bài toán hóc búa chưa có lời giải. Bài toán này đã từng được Arthur Eddington nêu lên hồi những năm 1920, thách thức thế giới vật lý. Đó là làm thế nào các ngôi sao có thể liên tục phát ra những năng lượng khổng lồ trong khoảng thời gian hàng tỉ năm mà không bị tắt? Người ta từng nghĩ rằng, năng lượng có thể là động năng sinh ra khi vật chất bị rơi vào nhau dưới tác dụng của trường hấp dẫn lớn. Nhưng các tính toán đã chỉ ra rằng, nguồn năng lượng như vậy chỉ đủ cung cấp cho một ngôi sao kiểu như Mặt Trời trong vòng một vài triệu năm mà thôi. Như vậy nguồn năng lượng khổng lồ của các ngôi sao vẫn còn là một bí ẩn. Năm 1935, Bethe dời Bristol đến Đại học Cornell (Mỹ), và ông đã tìm ra câu trả lời được ẩn chứa trong những phức hợp của các quá trình hạt nhân sinh năng cao. Bethe nghiên cứu rất kĩ lưỡng tất cả những gì người ta đã biết hồi đó về hạt nhân nguyên tử. Ông đã viết một loạt 3 bài báo về vật lí hạt nhân. Những bài báo này đã sớm trở thành những công trình nổi tiếng và kinh điển, còn được gọi là “kinh thánh Bethe”. Ông đã chỉ ra rằng ở đây nhất thiết phải có hai quá trình: Ở nhiệt độ cực cao, Cacbon có thể tác dụng như một chất xúc tác hạt nhân, nó thúc đẩy một quá trình tổng hợp các nguyên tử Hidro thành Heli và sinh ra năng lượng khổng lồ do sự hụt khối. Chu trình Cacbon do Bethe đề xướng này được xuất bản năm 1938, nó đã giải thích được tuổi đời lớn của các ngôi sao cực kì nóng. Bethe cũng đã chỉ ra rằng, ở nhiệt độ thấp hơn, dưới áp suất và mật độ tương như ở Mặt trời, một chuỗi các diễn biến có thể dẫn đến sự kết hợp trực tiếp các nguyên tử Hidro để tạo thành Heli và giải phóng nhiều năng lượng. Cơ chế này gần với nguyên lí hoạt động của bom H (bây giờ người ta vẫn đang tìm cách điều khiên loại phản ứng tổng hợp hạt nhân này để phục vụ nhu cầu năng lượng). Với các phản ứng nhiệt hạch, thời gian sống của các ngôi sao có thể đạt nhiều tỉ năm và lời giải của Bethe đã được thực tế kiểm chứng. Năm 1967, Hans Bethe được trao giải Nobel cho khám phá về nguồn năng lượng của các sao. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
4. Một số giải Nobel của thế kỉ 19 và 20
Một trong những hiện tượng không thể giải thích được của vài năm cuối cùng của thế kỉ 19 đó là việc Wilhelm Conrad Rontgen, người được trao giải Nobel vật lí đầu tiên ( năm 1901) phát hiện ra tia X vào năm 1895. Lại nữa, năm 1896 Antoine Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ và hai vợ chồng nhà bác học Marie và Pierre Curie tiếp tục nghiên cứu bản chất của hiện tượng này. Lúc bấy giờ người ta chưa hiểu nguồn gốc của tia X, nhưng người ta nhận ra rằng sự tồn tại của hiện tượng đó che dấu một thế giới các hiện tượng mới mặc dù lúc đầu người ta chưa thấy những ứng dụng thực tiễn trong viêc chẩn đoán bệnh của tia X. Nhờ công trình về hiện tượng phóng xạ trên Becquerel, vợ chồng Curie được trao giải Nobel năm 1903. Cùng với công trình của Ernest Rutherford (người đoạt giải Nobel về hoá học năm 1908 ) người ta hiểu rằng thực sự nguyên từ bao gồm một hạt nhân rất nhỏ chứ không phải như người ta từng nghĩ trước đâylà một phân tử không có cấu trúc. Người ta còn thấy một số hạt nhân nguyên tử lại không bền, chúng có thể phát ra các bức xạ alpha, betha và gama. Đó là cuộc cách mạng lúc bấy giờ, cùng với nhiều công trình vật lí khác, người ta đã vẽ ra những bức tranh đầu tiên của cấu trúc nguyên tử. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
Năm 1897, Joseph J. Thomson phát hiện ra các tia phát ra từ ca tốt trong một ống chân không là những hạt có mang điện tích. Ông đã chứng minh rằng, các tia này gồm những hạt rời rạc mà sau này chúng ta gọi là các hạt điện tử. Ông đã đo tỉ số giữa khối lượng của hạt và điện tích âm của hạt đó và thấy rằng giá trị đó chỉ bằng một vài phần rất nhỏ so với giá trị dự đoán của các nguyên tử mang điện và ngay sau đó người ta thấy rằng các hạt có khối lượng nhỏ bé mang điện tích âm đó, phải là những viên gạch cùng với hạt nhân mang điện tich dương đã tạo nên tất cả các loại nguyên tử. Thomson nhân giải Nobel vào năm 1906. Trước đó một năm vào năm 1905, Phillip E.A. von Lenard đã làm sáng tỏ rất nhiều tính chất thú vị của những tia phát ra từ ca tốt như là khả năng đi sâu vào những tấm kim loại và tạo ra huỳnh quang. Sau đó,vào năm 1912, Robert A. Millikan lần đầu tiên đã đo chính xác điện tử của điện tử bằng phương pháp giọt dầu(oil- drop) và điều này dẫn ông đến giải Nobel năm 1923. Millikan cũng được trao giải cho những công trình về hiệu ứng quan điện.
5. Thiên văn học từ đầu thế kỉ 20 đến nay.
Thiên văn học hiện đại có một bước ngoặt hết sức quan trọng cùng với vật lí học vào ngay vài năm đầu tiên của thế kỉ 20. Đầu thế kỉ 20, vật lí thế giới bước sang một trang mới thay đổi một phần lớn nhận thức của nhân loại về hai lí thuyết vật lí mà đến nay vẫn là mũi nhọn của vật lí hiện đại: Thuyết lượng tử do Planck đề xướng năm 1900 và thuyết tương đối đưa ra bởi Einstein (thuyết tương đối hẹp năm 1905 và thuyết tương đối rộng năm 1915). Hai lí thuyết này đã góp phần quan trọng nhất vào tất cả các khám phá của nhân loại về vũ trụ, không gian và thời gian trong thế kỉ 20 và cả những năm đầu tiên của thế kỉ 21.
– Năm 1900, Chaberlin và Moulton đề xuất giả thuyết va chạm về sự hình thành hệ Mặt trời, theo đó các hành tinh được hình thành do sự va chạm của Mặt trời sơ khai với một ngôi sao khác. Cũng năm này, Max Planck nêu ra lí thuyết về sự lượng tử hoá năng lượng.
– Năm 1905 Albert Einstein nêu ra thuyết tương đối hẹp với hai nội dung chính là mọi định luật vật lí là như nhau với người quan sát ở các hệ quy chiếu quán tính có vận tốc bất kì và vận tốc ánh sáng là vận tộc lớn nhật và là vận tốc tuyệt đối có giá trị như nhau với mọi hệ quy chiếu có vận tốc bất kì.
– Năm 1911 – 1914, Hertzsprung và Russel cùng khám phá ra mối liên quan giữa các vạch quan phổ của các ngôi sao và cấp sao của chúng, mối liên quan này được biều diễn trên biều đồ Hertzsprung – Russel
-Năm 1915 Adams phát hiện ra sao lùn trắng đầu tiên, sao Sirius B. Einstein hoàn thiện và công bố thuyết tương đối rộng về trường hấp dẫn của mình, năm 1916, phương trình trường của thuyết này ra đời.
– Năm 1919, Eddington chứng minh thành công thuyết tương đối rộng Einstein băng việc quan sát hiện tượng nhật thực toàn phần trên đảo Principe qua đó xác minh được tính chính xác của hiệu ứng lệch đường đi tia sáng qua Mặt trời có thể quan sát được khi có nhật thực toàn phần.
– Năm 1929, Hubble phát hiện ra hiện tượng tất cả các thiên hà ở rất xa có vạch quang phổ dịch mạnh về phía đỏ, áp dụng hiệu ứng Doppler cho hiện tượng này, Hubble kết luận rằng tất cả các thiên hà đều đang rời xa nhau theo mọi hướng và như vậy là vũ trụ đang giản nở. Sự rời xa của các thiên hà được biểu diễn qua định luật Hubble.
– Năm 1930, nhà thiên văn nghiệp dư Tombaugh phát hiện ra hành tinh thứ 9 của Hệ Mặt trời – sao Diêm Vương.
– Năm 1937 – 1940 Gamov đưa ra lí thuyết về sự tiến hoá của các ngôi sao.
– Năm 1948, Gamov đề xuất lí thuyết Big Bang (vụ nổ lớn) vệ sự hình thành vũ trụ. Lí thuyết này cho biết vũ trụ đã hình thành từ một vụ nổ lớn cách đây khoảng 15 tỉ năm sinh ra vật chất, không gian và thời gian.
– Năm 1957 vệ tinh nhân tạo đầu tiên được phóng lên vũ trụ. Vệ tinh này mang tên Sputnik1, được Liên Xô cũ phóng lên ngày 4 tháng 10. Năm 1961, lần đầu tiên con người đặt chân lên vũ trụ. Người đầu tiên bay lên vũ trụ là Gagarin, bay lên vào ngày 12 tháng 4 trên tàu Vostok1.
– Năm 1965, Penzias và Wilson khám phá sự tồn tại của bức xạ phông vũ trụ ở nhiệt độ 2,7K. Khám phá này là một bằng chứng quan trọng chứng minh cho thuyết Big Bang. Loại bức xạ phông này đã được Big Bang tiên đoán từ trước đó, theo đó đây chính là loại bức xạ còn xót lại và giảm nhiệt độ từ Big Bang đến nay.
– Năm 1967, Pulsar đầu tiên được phát hiện, đó là các thiên thể nhỏ nhưng có tốc độ quay rất lớn ( có nghĩa là khối lượng của nó là rất lớn), ngày nay đã biết Pulsan là các ngôi sao nặng sau khi chết đi co lại thành các khối neutron có mật độ rất lớn gọi là sao neutro.
– Năm 1969, con người lần đầu tiên đặt chân lên Mặt trăng. Hai người đầu tiên đặt chân lên bề mặt của mặt trăng là Neils Armstrong và Edwin Aldrin, họ đã bay lên Mặt trăng trên tàu Apollo11.
– Năm 1977 –1986, các tàu Voyager 1 và 2 được phóng lên và lần chụp ảnh các hành tinh nhóm ngoài của hệ Mặt trời, chúng cũng là hai tàu du hành đầu tiên đã ra khỏi biên giới của Hệ Mặt trời.
– Năm 1981 Alan Guth nêu ra lí thuyết lạm phát để mô tả và giải thích sự giản nở gia tốc của vũ trụ.
– Năm 1998, nhóm dự án vũ trụ học sao siêu mới do Saul Perlmutter đứng đầu khi quan sát các sao siêu mới phát hiện ra rằng vũ trụ đang giản nở với gia tốc ngày càng tăng và như thế thì vũ trụ sẽ giản nở mãi mãi.
Hiện này thiên văn học tập trung vào hai mũi nhọn cơ bản: Thứ nhất là vũ trụ học, nghiên cứu cấu trúc và sự tiến hoá của vũ trụ trên nền tảng là các lí thuyết vật lí hiện đại mà chủ yếu là cơ học lượng tử. Hướng thứ 2 là hàng không vũ trụ, ứng dụng các công nghệ hàng không để nghiên cứu các thiên thể trong Hệ Mặt trời.
Thiên văn học từng là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất cũng là môn khoa học ít nhận được sự đánh giá đúng mức nhất. Nhưng giờ đây, hơn lúc nào hết, thiên văn học đang là một trong những môn khoa học vươn xa nhất và đóng góp những thành tựu không thể thay thế cho nhân loại.
XEM THÊM ==> DANH SÁCH TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
6. Sự góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của những thành tựu vật lí hiện đại
Từ những thành tựu trên chúng ta thấy rằng nếu xét trong các ngành của khoa học tự nhiên thì vật lí là một ngành khoa học đóng vai trò chủ đạo. Điều này đã được thừa nhận rộng rãi trong giới khoa học từ nhiều chục năm qua. Tuy nhiên, trong một vài thập niên gần đây, do sự phát triển nhanh chóng và những ứng dụng thực tiễn thiết thực của một số chuyên ngành sinh học đặc biệt sinh học phân từ hay điều khiển học ( tin học ) mà có một vài học giả cho rằng vật lí học đã nhường vai trỏ chủ đạo bấy lâu nay của mình cho sinh học hay cho điều khiển học. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
Để làm rõ vai trò chủ đạo của một ngành khoa học nào đó cần phải phân biệt tính giá trị của nó trong thực tiễn ứng dụng nhân loại với tính cơ bản của nó trong nghiên cứu khoa học của thời đại. Có không ít những thành tựu mang lại ý nghĩa thực tiễn to lớn cho nhân loại nhưng không phải là những thành tựu cơ bản của khoa học. Tuy nhiên, mọi phát minh cơ bản của khoa học sớm hay muộn gì cũng mang lại những giá trị thực tiễn to lớn, chúng thúc đẩy quá trình thay đổi to lớn và mạnh mẽ các mặt hoạt động khoa học, kĩ thuật và công nghệ, làm biến đổi lối sống, cung cách ứng xử và cả cách nghĩ của con người. Những phát minh của vật lí học cả trong quá khứ lẫn trong hiện tại không chỉ mang lại cho chúng ta những quan niệm khoa học cơ bản cả vô sinh lẫn hữu sinh mà còn trang bị cho chúng ta những công cụ hiệu quả để đào sâu và mở rộng nhận thức đúng đắn về thế giới.
Đặc biệt, những phát minh của vật lí học hiện đại đã đang góp phần hướng dẫn hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới một cách có hiệu quả, giúp hiện thực hoá những ước mơ ngàn năm của nhân loại và mang lại những lợi ích vật chất cũng như tinh thần vô cùng thiết thực cho con người. Có thể nói mọi thành tựu của nền văn hoá vật chất ( văn minh kĩ thuật, tiến bộ công nghệ…), mọi giá trị của nền văn hoá tinh thần trong nhiều thập niên gần đây đều dựa vào những phát minh cơ bản của vật lí học. Vật lí học thực sự là khoa học chủ đạo của nhóm ngành khoa học tự nhiên.
Khi xem vật lí đóng vai trò chủ đạo là “thủ lĩnh” của khoa học tự nhiên, chúng ta cũng cho rằng, cốt lõi của bức tranh khoa học tự nhiên về thế giới là bức tranh vật lí học về thề giới. Khi dựa trên những quan điểm cơ bản và tổng quát của vật lí học về vật chất và về các thuộc tính của nó, các nhà vật lí học đã xây dựng bức tranh vật lí học về thề giới. Bức tranh vật lí học về thế giới được xem là mô hình lí tưởng về giới tự nhiên được xây dựng dựa trên những nguyên lí, những quan niệm cơ bản và tổng quát của một giai đoạn phát triển nhận thức vật lí nhất định. Còn giai đoạn phát triển nhận thức vật lí đó không thể tách ra khỏi đời sống triết học, văn hoá và thực tiễn của con người. Bức tranh vật lí học về thế giới là một chỉnh thể tinh thần rất phức tạp mà tâm điểm của nó là những quan niệm cơ bản và tổng quát của thời đại về thực tại vật lí cùng với những quan niệm cụ thể của vật lí về vật chất, không gian, thời gian, vận động, tương tác, nhân quả… Vì vậy, LêNin đã nhận định “nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ nghĩa duy vật mà Mác là người đại diện, nghĩa là khoa học tự nhiên ấy phải là nhà duy vật biện chứng”. Qua đó các thành tựu của vật lí hiện đại đã góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận của chúng ta. (Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng)
[1] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 37.
[2] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 696.
[3] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 53.
[4] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mãtcơva, 1980, t 23, tr, 54.
[5] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.12.
[6] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 23, tr. 53.
[7] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mãtxcơva, 1980, t.18, tr. .209 – 210
[7] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 18, tr. 322.Trên đây là tiểu luận môn Triết Học đề tài Những thành tựu của vật lí học hiện đại góp phần phát triển thế giới quan duy vật biện chứng, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương : còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận, nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562