Có phải bạn đang tìm kiếm Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học? Bài viết sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn sinh viên một bài mẫu tiểu luận hoàn toàn hay mà các bạn không nên bỏ lỡ, chẳng những thế còn đạt được điểm cao đáng để xem và tham khảo. Nguồn tài liệu này mình đã triển khai cho các bạn nội dung như là lời mở đầu tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học,nội dung môn tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học, cuối cùng là tiểu luận kết luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Hy vọng nguồn tài liệu này sẽ nhanh chóng giúp được cho các bạn thêm nhiều kiến thức để nhanh chóng hoàn thành bài tiểu luận.
Chưa dừng lại ở đó, hiện tại bên mình có nhận viết thuê tiểu luận với đa dạng đề tài phổ biến khác nhau. Nếu như các bạn sinh viên đang có nhu cầu cần viết bài tiểu luận thì đừng chần chừ nữa, ngay bây giờ đây hãy tìm đến ngay dịch vụ làm tiểu luận thuê chất lượng của chúng tôi qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá và hỗ trợ nhanh nhất có thể nhé.
1.Lời Mở Đầu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
Hơn 35 năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, cũng như cả nước, kinh tế của tỉnh Quảng Ninh đã có những bước chuyển mình to lớn cả về chất và về lượng. Trong đó, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được nhiều thành tựu to lớn, nổi bật, có những bước phát triển khá mạnh mẽ và toàn diện. Tỉnh đã đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững, Đề án 196 và Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) đạt kết quả nổi bật.
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nếu so sánh với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và của tỉnh thì nông nghiệp và nông thôn của tỉnh Quảng Ninh vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức như: vấn về việc làm cho lao động nông thôn; tình trạng nghèo đói, khóa khăn ở vùng sâu, vùng xa; áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào nông nghiệp; cơ sở hạ tầng ở nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn; hệ thống thị trường tiêu thụ nông sản còn nhỏ lẻ…. và đặc biệt là vấn liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đang là vấn đề bức xúc nhất không chỉ đối với nông dân mà còn là yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý nhà nước. Ví dụ như tại sao được mùa mà người nông dân không phấn khởi? Được mùa mất giá? Đây là một câu hỏi lớn, một trong những vấn đề cấp thiết phải được giải quyết kịp thời, nhằm đưa nền nông nghiệp của tỉnh phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh sẵn có và xa hơn là ngang tầm với nông nghiệp của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
XEM THÊM : Dịch Vụ Làm Tiểu Luận Thuê Chất Lượng
Bản thân chọn đề tài “Phân tích mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản hiệu quả ở tỉnh Quảng Ninh”, nhằm tìm hiệu thực trạng, những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, đồng thời đề xuất một số giải pháp để phát huy hiệu quả trong liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản của tỉnh, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp của địa phương.
Do nội dung đề tài là một chủ đề lớn, cũng như thời gian nghiên cứu, thu thập số liệu có hạn nên nội dung bài làm sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong nhận được sự góp ý của quý giảng viên để bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
2.Nội Dung Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
- Cơ sở lý luận về liên minh giai cấp tầng lớp
- Khái niệm liên minh giai cấp, tầng lớp
Liên minh giai cấp, tầng lớp là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau giữa các giai cấp, trước hết các giai cấp có lợi ích cơ bản không đối kháng (liên minh chiến lược), sau nữa có thể giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối kháng nhau nhằm đáp nhu cầu và lợi ích của từng chủ thể trong khối liên minh, đồng thời góp phần vào sự phát triển chung của đất nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tính tất yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp
* Tất yếu kinh tế – kỹ thuật:
– Do yêu cầu khách quan phải gắn nông nghiệp với công nghiệp và khoa học công nghệ nhất là ở những nước nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
– Tạo thành nền kinh tế thống nhất phát triển nhanh, bền vững
– Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
+ Vấn đề nông nghiệp: Hiện nay, nông nghiệp nước ta đã phát triển tương đối tốt. Đặc biệt, chúng ta xuất khẩu được nhiều nông sản trong điều kiện giá lương thực và nông sản thế giới đang tăng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập khiến chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của nông nghiệp: Chất lượng nông sản còn thấp, vì chủ yếu xuất khẩu nông sản thô, quy mô sản xuất nhỏ nên giá thành cao, năng suất lao động thấp. Muốn tăng giá trị nông sản, cần cải tiến đến chất lượng sản phẩm; Giá đầu vào của sản xuất nông nghiệp đang tăng mạnh, giá nông sản không theo kịp, nông dân không còn hăng hái với sản xuất nông nghiệp, lao động nông thôn đang bỏ ra đô thị kiếm việc làm…
+ Vấn đề nông dân: Nông dân còn quá nghèo, việc giải quyết giảm nghèo chưa gắn liền với phát triển kinh tế nông thôn nên chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo vẫn còn rất cao; Nông dân là bộ phận công dân ít được hưởng phúc lợi xã hội, nhất là về giáo dục, y tế. Những vấn đề xã hội ở nông thôn chưa được giải quyết một cách cơ bản như: bảo hiểm thiệt hại do thiên tai và thị trường, bảo hiểm xã hội; Nông dân thiếu việc làm ở nông thôn phải di cư ra thành thị để tìm việc, làm thuê với giá lao động rất thấp và bị đối xử như “công dân loại hai”, mặc dù họ là động lực chủ yếu của công cuộc đổi mới. Nông dân tham gia thị trường lao động nhưng chưa được đào tạo nghề; Quyền lợi của nông dân chưa được bảo vệ, còn thiếu chủ quyền về đất đai, bị mất đất mà không có ai bênh vực. Việc đầu cơ ruộng đất làm giá bất động sản lên cao một cách giả tạo, nhưng nông dân cũng không được hưởng lợi gì từ việc này. Tình trạng này có nguyên nhân từ sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước.
+ Vấn đề nông thôn: Trong quá trình đổi mới, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa nhau; Nông nghiệp mâu thuẫn với phát triển nông thôn. Các vùng phát triển nông nghiệp mạnh thì không chuyển đổi được cơ cấu kinh tế nông thôn, không tạo thêm được việc làm và không tăng nhanh thu nhập của nông dân; Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn không thuận lợi cho việc nâng cao năng suất lao động nông thôn và tăng thu nhập của nông dân. Việc để nông dân đi bán sức lao động ở nơi khác với giá rẻ mạt và việc không có quy hoạch lao động đã dẫn đến nhiều vùng thiếu lao động và giá lao động tăng mạnh; Các hộ nông dân đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp nhỏ: nông trại gia đình, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ từ các làng nghề, nhưng các doanh nghiệp này không được các chương trình doanh nghiệp nhỏ và vừa hỗ trợ; Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng…
XEM THÊM : Đề Tài Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học Bài Mẫu
– Thực hiện nhu cầu và lợi ích chung (lợi ích hài hòa)
+ Tạo ra sự đồng thuận, giảm bớt các mâu thuẫn.
+ Khối liên minh gắn bó với nhau
* Tất yếu trên lĩnh vực chính trị – xã hội
+ Là nòng cốt để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cũng là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và trên cơ sở đó để giải phóng nông dân: nông dân được làm chủ đích thực trên lĩnh vực xã hội, được tham gia, biết, bàn, kiểm tra.
+ Liên minh để tạo sự ổn định; dưới sự lãnh đạo của Đảng; liên minh đi tới xóa bỏ giai cấp.
- Vị trí vai trò của liên minh giai cấp, tầng lớp
– Liên minh công – nông – trí thức là vấn đề chiến lược quyết định đến sự thành bại của cách mạng, sự thắng lợi của công cuộc xây dựng xã hội mới.
– Liên minh công – nông – trí thức là cơ sở chính trị – xã hội tin cậy, để xây dựng được Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện quản lý mọi mặt phát triển của đời sống xã hội.
– Liên minh công – nông – trí thức là nền tảng để tập hợp, đồng thuận các lực lượng, các giai cấp và tầng lớp khác nhau tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
– Liên minh các giai cấp, tầng lớp để hình thành động lực quan trọng nhất của phát triển xã hội.
– Liên minh vững chắc công – nông – trí thức, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng được những thời cơ để phát triển, giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Quan điểm của Đảng về liên minh giai cấp tầng lớp
Đên nay, Đảng ta đã có các nghị quyết để xây dựng và phát huy vai trò của hầu hết các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội. Trong đó, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề, như: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X “về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chap hành Trung ương khóa X “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ”, uvề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tể…”. Nhiều nghị quyết, tuy không có tính chuyên đề về giai cấp, tầng lóp, nhưng trực tiếp và lồng ghép các nội dung có tác động đến giai cấp, tầng lóp, như: Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Một sổ vẩn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” (tác động đến những tầng lớp dễ bị tổn thương, những người nghèo, những người có công…); Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kỉnh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa”, về “Tỉểp tục cơ cẩu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” (tác động đến tầng lớp doanh nhân, người lao động, cá thể, tiểu chủ…).
XEM THÊM : Tiểu Luận Triết Học Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Con Người

Quán triệt quan điểm của Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị đã phát huy vai trò của mình – vai trò quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp nhằm huy động hiệu quả mọi nguồn lực, nhằm khơi dậy nội lực của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, phát huy ý chí, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
III. Thực trạng mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản ở tỉnh Quảng Ninh
- Khái quát đặc điểm tình hình địa phương và mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản ở tỉnh Quảng Ninh
1.1. Khái quát đặc điểm, tình hình địa phương
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc nước ta, có biên giới quốc gia và hải phận giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất. Diện tích tự nhiên khoản 6177,7 km2, với khoảng 10% diện tích là đất nông nghiệp. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân số hơn 1,3 triệu người. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vừa thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2015-2020 của tỉnh duy trì ở mức cao so với bình quân chung của cả nước, bình quân tăng 10,7%/năm, trong đó ngành nông, lâm, thủy sản đạt 3,5%/năm. Trong 5 năm (2015-2020), ngân sách đã bố trí 2.674 tỷ đồng thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới và đưa các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới, toàn tỉnh có 89/98 xã (91%) đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó có 20 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao); có 07/13 địa phương cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; là một trong những địa phương đi đầu trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, có xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu đầu tiên trong cả nước; thu nhập bình quân khu vực nông thôn đạt 45 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm xuống còn khoảng 1%.
1.2. Thuận lợi
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản của tỉnh Quảng Ninh nói riêng được thực hiện trong điều kiện có nhiều thuận lợi:
– Luôn được cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Ngoài các quy định của Trung ương, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, cơ chế, chính sách để tạo hành lang pháp lý hỗ trợ tốt nhất cho lĩnh vực này, tiêu biểu như:
+ Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh khóa XIII về việc ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh.
+ Quyết định số 35/2019/QĐ-UBND ngày 11/11/2019 của UBND tỉnh về ban hành quy định triển khai thực hiện Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh Quảng Ninh.
+ Quyết định số 196/QĐ-UBND ngày 17/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt Đề án nhiệm vụ và giải pháp đưa các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, hoàn thành mục tiêu chương trình 135 giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
– Công tác cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh được quan tâm đẩy mạnh, tạo mọi điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia đầu tư liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời, trong thời gian qua, tỉnh đã tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại; tổ chức chương trình kết nối cung – cầu và giới thiệu sản phẩm nông sản, thực phẩm an toàn; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp tại địa phương.
– Trên địa bàn tỉnh, nhiều hợp tác xã đã được thành lập để phát triển sản xuất nông nghiệp theo quy mô hàng hóa ngày càng lớn dần và nâng cao chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh của sản phẩm; chú trọng triển khai các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, trọng tâm là sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm chủ lực, năng lực cạnh tranh cao, như tôm nước lợ, nhuyễn thể, lúa gạo, rau các loại, cá biển, mực, cây ăn quả, chè, dược liệu… tạo điều kiện kết nối cho quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản.
– Thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp, một số loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với thổ nhưỡng đã được nhiều địa phương ưu tiên mở rộng, phát huy được lợi thế để tham gia chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, như: gà Tiên Yên, lợn Móng Cái, cây Ba Kích, trà Hoa vàng…
– Công tác tuyên truyền, vận động thay đổi nhận thức của nông dân, chuyển từ tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ lẻ, truyền thống sang phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa được chú trọng tăng cường. Nhận thức của người nông dân đã có sự chuyển biến tích cực, có tinh thần, ý muốn tham gia vào các chuỗi liên kết sản xuất, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm, nhằm tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng giá trị sản phẩm và phát triển một cách bền vững trước những biến động của thị trường.
1.3. Khó khăn
– Cũng như nhiều địa phương khác trong nước, quá trình liên kết gắn với tiêu thụ nông sản giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân còn gặp nhiều khó khăn như: Công tác dồn đổi, tích tụ đất nông nghiệp hình thành cánh đồng lớn để sản xuất ứng dụng công nghệ cao còn gặp nhiều khó khăn do tâm lý người dân muốn được quyền sử dụng đất riêng, nên không muốn giao đất để dồn đổi, tích tụ tạo thành cánh đồng lớn. Việc tuân thủ theo quy trình kỹ thuật đồng nhất còn gặp khó khăn.
– Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học hoạt động của các hợp tác xã, doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm còn thụ động, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước, chưa có chiến lược rõ ràng, định hướng cụ thể, chủ động.
– Nhận thức của một bộ phận nông dân còn có mặt hạn chế, chưa thật sự tuân thủ những ràng buộc trách nhiệm với doanh nghiệp, khi đã tham gia vào các chuỗi liên kết sản suất và tiêu thụ sản phẩm nhưng vẫn có tâm lý bán hàng ra ngoài, phá vỡ cam kết khi giá thị trường lên cao.
– Tình hình thời tiết, dịch bệnh trong thời gian gần đây có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của người dân, đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, làm cho người dân e ngại khi mua sắm, nhu cầu thị trường trong nước và trong tỉnh giảm mạnh, một số nông sản không xuất khẩu được dẫn đến đứt gãy các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Kết quả đạt được của mô hình liên kết
2.1. Sơ lược về các chủ thể trong liên kết
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học hoạt động liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản là những hoạt động kinh tế tự nguyện, cùng có lợi, nhưng ràng buộc chặt chẽ với nhau theo một thỏa thuận trước của các chủ thể sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản; là một trong các hình thức phối hợp hoạt động giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản, gắn với các hình thức tổ chức kinh doanh trong ngành nông sản, chịu sự chi phối của các chế định thể chế nhằm đạt được mục tiêu của các hoạt động tham gia quá trình liên kết. Trong chuỗi liên kết này ở tỉnh Quảng Ninh, xin nêu đặc điểm cơ bản các chủ thể chủ yếu sau:
– Người sản xuất: sản xuất hiện nay vẫn còn mang tính nhỏ lẻ, phân tán chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa tạo ra sản phẩm an toàn chất lượng đáp ứng người tiêu dùng. Các hộ sản xuất chưa chú ý tới việc liên kết nhóm hộ mà vẫn còn sản xuất tự phát mạnh, ai người đó làm nên chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm đủ lớn và ổn định. Trong khi đó các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm thường ký các hợp đồng với các trang trại lớn, các vùng có lượng sản phẩm lớn và ổn định. Đặc biệt tình trạng người sản xuất phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm gia tăng, tự ý bán phá giá cho các thương lái khác khi giá bán cao hơn còn xảy ra…. Điều này dẫn đến tình trạng “Được mùa mất giá, ít thiếu nhiều thừa”, hiệu quả kinh tế không cao, chưa tạo được tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp.
– Doanh nghiệp: đóng vai trò quan trọng trong liên kết. Được coi là trung gian để hình thành cung nhiên liệu sản xuất, hỗ trợ và phổ biến kĩ thuật chăm sóc cũng như kiêm luôn việc tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên hiện nay, nhiều nhà đầu tư vẫn còn ngần ngại bỏ tiền ra để đầu tư vào nông nghiệp bởi vì rủi ro cao. Có nhiều nguyên do rủi ro như thiên tai hay các nguyên nhân khác, nông dân không trả được nợ doanh nghiệp và tình trạng vay vốn bị kéo dài.
– Nhà khoa học: Các nhà khoa học có vai trò cung cấp đầu vào chất lượng cao cho các nhà nông dân với chi phí rẻ. Nhưng hiện nay việc liên kết trực tiếp từ nhà khoa học với nhà nông còn gặp nhiều khó khăn vì họ thường không giỏi việc buôn bán các sản phẩm.
– Nhà nước: là nhân tố quan trọng nhất, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể còn lại liên kết tốt được với nhau. Tạo ra các cơ chế hợp lý để giải quyết ổn thỏa những tranh chấp giữa các bên. Ví dụ như tạo ra cơ chế hợp lí để giải quyết việc tranh chấp liên kết giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông về vấn đề vay mượn; đối với trường hợp bất khả kháng như thiên tai, bão lũ thì cần phải có các cơ chế hợp lí cho bên bị thiệt hại.
– Người tiêu dùng: Cơ bản người tiêu dùng hiện nay thiếu thông tin về sản phẩm, chưa biết cách nhận diện sản phẩm an toàn chất lượng cao, chưa nắm được địa chỉ cơ sở sản xuất uy tín, bên cạnh đó một bộ phận người tiêu dùng thích các sản phẩm giá rẻ.
2.2. Kết quả liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản ở tỉnh Quảng Ninh
Xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn theo chuỗi liên kết là hướng đi mới giúp nông dân nâng cao giá trị sản phẩm một cách bền vững. Đặc biệt, trong bối cảnh ngành nông nghiệp của tỉnh vẫn còn phát triển với quy mô nhỏ, đa phần sản xuất theo kiểu truyền thống, sự liên kết càng cần thiết, nhất là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với xây dựng thương hiệu hàng hóa.
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nhất là Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh; Quyết định số 35/2019/QĐ-UBND ngày 11/11/2019 của UBND tỉnh về ban hành quy định triển khai thực hiện Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh Quảng Ninh…; Xác định phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa nông sản là xu thế tất yếu và nhu cầu không thể thiếu. Do vậy, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để thực hiện hiệu quả việc liên kết, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm, thể hiện qua những kết quả tiêu biểu như sau:
– Công tác quy hoạch vùng liên kết sản xuất, tiêu thụ một phẩm nông nghiệp, trong đó có chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến cuối năm 2020, tỉnh có 17 vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, với diện tích gần 5.000ha, tiêu biểu như: Vùng trồng lúa chất lượng cao ở thị xã Đông Triều; vùng trồng rau an toàn ở thị xã Quảng Yên; vùng trồng chè tập trung ở huyện Hải Hà; vùng trồng hoa tại thành phố Hạ Long; vùng chăn nuôi lợn Móng Cái; vùng chăn nuôi tôm ở Đầm Hà, Móng Cái; vùng nuôi trồng nhuyễn thể ở Vân Đồn…
Đặc biệt với sự tích cực, chủ động của địa phương; ngày 31/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2263/QĐ-TTg thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh được xây dựng tại xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều với tổng diện tích tự nhiên toàn khu là 106ha. Đây là khu thực hiện các hoạt động ứng dụng thành tựu nghiên cứu, thử nghiệm, trình diễn mô hình sản xuất công nghệ cao chủ yếu trong lĩnh vực: Trồng trọt, bảo quản chế biến nông sản (rau, cây ăn quả, hoa cây cảnh), sản xuất chế phẩm sinh học, thuốc điều hòa sinh trưởng cho cây trồng…, đào tạo, tiếp nhận chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp của tỉnh, vùng và cả nước.
– Đồng thời với việc quy hoạch, tỉnh đã chỉ đạo vận động, kêu gọi thành lập các liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Từ năm 2016 đến cuối năm 2021, tỉnh tạo ra được 20 chuỗi liên kết, với 59 sản phẩm nông sản. Các mô hình liên kết tiêu biểu như: Chuỗi liên kết tổ chức sản xuất, thu hoạch, gắn với tiêu thụ sản phẩm khoai lang lim Móng Cái, tỏi tím Vĩnh Thực; Chuỗi liên kết cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch gắn với tiêu thụ sản phẩm tôm thẻ chân trắng; sản xuất, tiêu thụ khoai tây Atlantich, na, vải thiều, gạo nếp cái hoa vàng trên địa bàn thị xã Đông Điều.
– Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học hoạt động kêu gọi liên kết hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đi đôi với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất được quan tâm. Trong sản xuất trồng trọt, tỉnh đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện gieo trồng đúng lịch thời vụ, ứng dụng các tiến bộ khoa học như sử dụng các giống cây trồng có tính ưu việt, phù hợp với điều kiện địa phương, ứng dụng tưới nước tiên tiến, tưới nước tiết kiệm phù hợp và sử dụng các máy móc thay thế sức người; bảo vệ cây trồng theo nguyên tắc IPM (biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp), tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học, thảo mộc để phòng trừ sâu bệnh gây hại; chăm sóc cây trồng theo nguyên tắc ICM (quản lý cây trồng tổng hợp), khuyến cáo người sản xuất tăng cường sử dụng phân hữu cơ, giảm dần lượng phân bón vô cơ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đảm bảo sản lượng phục vụ chế biến tiêu thụ, đảm bảo sản xuất đạt hiệu quả và môi trường sản xuất an toàn.
– Nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được thực hiện theo hướng liên kết 4 nhà: nhà nước – doanh nghiệp – nhà khoa học và người sản xuất trong tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân được hình thành. Như trên địa bàn thị xã Quảng Yên, Công ty cổ phần Việt Long triển khai đã áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến về giống rau, chất lượng an toàn thực phẩm và được sản xuất theo tiêu chuẩn mô hình Thực hành sản xuất nông nghiệp tôt (VietGap); để đảm bảo chất lượng, Công ty phối hợp với Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Viện Khoa học Nông nghiệp để chuyển giao kỹ thuật trồng và chăm sóc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo yêu cầu chất lượng phục vụ sản xuất rau an toàn; tập đoàn Vingroup tham gia đầu tư Dự án Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Nhật Bản, Hàn Quốc, Israel tại xã Hồng Thái Tây…
– Bên cạnh đó, hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xây dựng Đề án phát triển chuỗi các sản phẩm nông sản chủ lực cấp tỉnh giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030; trong đó có các dự án mang tính liên kết được ưu tiên thực hiện gồm dự án xây dựng mô hình chuỗi (mô hình sản xuất tôm hữu cơ, mô hình liên kết từ nuôi đến bao tiêu sản phẩm lợn Móng Cái, mô hình liên kết từ nuôi đến bao tiêu sản phẩm gà Tiên Yên, mô hình từ trồng đến bao tiêu sản phẩm lúa nếp cái hoa vàng; mô hình ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dược liệu hữu cơ theo mô hình liên kết chuỗi)… nhằm để thúc đẩy chuỗi giá trị nông sản, nâng cao đời sống nhân dân; khai thác hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, xã hội và truyền thống canh tác, thị trường tiêu thụ gắn với đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông sản; nâng cao giá trị, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản chủ lực cấp tỉnh gắn với yêu cầu của thị trường tiêu thụ sản phẩm và phát triển thị trường trong nước, hướng tới xuất khẩu; triển khai có hiệu quả đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
2.3. Hạn chế
Trong quá trình triển khai, các mô hình liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định, như:
– Mặc dù đã có chuyển động và đạt được kết quả như trên, tuy nhiên số lượng và chất lượng các chuỗi liên kết đã có so với thực tế sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh còn thiếu và yếu. Chỉ tính về số lượng, 20 chuỗi với 59 sản phẩm được xác nhận là rất hạn chế so với cả ngàn sản phẩm nông nghiệp hiện có. Riêng về tính bền vững trong các chuỗi liên kết chưa cao, dễ đứt gãy.
– Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học việc phát triển liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm gia tăng giá trị sản phẩm trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, thách thức đó là việc các hộ sản xuất chưa chú ý nhiều đến việc liên kết nhóm hộ, tổ hợp tác thành lập hợp tác xã, mà vẫn sản xuất tự phát mạnh ai người đó làm nên chưa tạo được nhiều vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm chưa đủ lớn và ổn định, đặc biệt là sản phẩm của các hộ cá thể độc lập khó truy xuất nguồn gốc.
– Việc liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi ro, chủ yếu vẫn liên kết theo hình thức thương thảo thuận mua vừa bán.
– Tình trạng tiêu thụ sản phẩm vẫn còn qua nhiều khâu trung gian phân phối nên giá bán thực tế cao hơn nhiều so với giá thu mua tại cơ sở sản xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng.
– Công tác tuyên truyền quảng bá giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn yếu.
– Nhiều chuỗi liên kết nông sản chủ lực của tỉnh có tính bền vững không cao. Như đối với con tôm thẻ chân trắng, ở Quảng Ninh có thể coi là vùng trọng điểm của miền Bắc với sản lượng khoảng 14.000 tấn/năm. Thế nhưng, nếu như thương lái thu mua ồ ạt, thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thủy sản Quảng Ninh luôn là đơn vị chịu thua thiệt, bởi không thể thu mua được nguồn hàng do thiếu sự ràng buộc trong liên kết, hoặc không có sự liên kết. Hay như đối với con hàu, hiện sản lượng nuôi mỗi năm đạt đến trăm nghìn tấn. Nhưng lượng hàu nuôi tại nhiều vùng quá tải, nuôi trên những vật liệu thiếu bền vững và không bảo đảm được tính an toàn, nên không được cấp mã số vùng nuôi để truy xuất nguồn gốc. Các doanh nghiệp chế biến muốn nhập nguyên liệu thì cũng khó để đặt vấn đề liên kết.
* Nguyên nhân của hạn chế:
Những hạn chế trong quá trình triển khai các mô hình liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nói trên do một số nguyên nhân cơ bản như sau:
– Nguyên nhân khách quan:
+ Tình hình trong nước và trong tỉnh có lúc chưa thuận lợi; thiên tai, dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, đặc biệt là dịch Covid-19 gây nhiều tác động tiêu cực.
+ Hệ thống pháp luật, quy định còn có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Cơ chế quản lý chung có mặt còn bất cập, chưa tạo thuận lợi cho các địa phương đã tự chủ ngân sách để thúc đẩy phát triển; phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương chưa thực sự đủ mạnh, hiệu quả.
+ Giá cả nông sản trong những năm vừa qua biến động liên tục nên các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân chưa mạnh dạn hình thành các liên kết trong sản xuất, chiến biến và tiêu thụ sản phẩm.
+ Một số chuỗi liên kết sản xuất mới bước đầu hình thành nên sự liên kết chưa chặt chẽ, quá trình thực hiện còn lúng túng. Hợp đồng liên kết còn nhiều bất cập, chưa có chế tài đủ mạnh xử lý khi vi phạm hợp đồng liên kết. Nội dung hợp đồng bao tiêu sản phẩm cơ bản là hợp đồng có tính hướng dẫn, không phải là hợp đồng kinh tế nên tính pháp lý không cao, do đó các bên dễ vi phạm hợp đồng.
+ Quy mô đất đai của hộ nông dân nhỏ lẻ ảnh hưởng đến khả năng thu hút doanh nghiệp vào liên kết với các hộ nông dân để hình thành vùng nguyên liệu đủ lớn, có thể đầu tư và ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm tối đa hóa hiệu quả sản xuất sản phẩm nông nghiệp.
– Nguyên nhân chủ quan:
+ Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học sự quản lý, điều hành của chính quyền có mặt còn chưa đáp ứng, tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững, Đề án 196 và Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) của tỉnh. Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện có mặt còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa quyết liệt, kịp thời.
+ Hoạt động của các hợp tác xã, doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm còn thụ động, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước, chưa có chiến lược rõ ràng, định hướng cụ thể.
+ Do nguồn vốn thực hiện từ nguồn ngân sách tỉnh hằng năm phân bổ về các địa phương để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, sau đó UBND các địa phương chủ động triển khai cho các dự án thực hiện 2 nội dung: Xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Tuy nhiên thực tế ghi nhận tại các địa phương vẫn chủ yếu phân bổ cho đầu tư xây dựng, còn nội dung phát triển sản xuất nhìn chung bố trí tỷ lệ vốn ít hơn. Cùng với đó, do cơ chế hỗ trợ dự án sau đầu tư, nên nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã ít tiềm lực, quy mô nhỏ còn e ngại khi tiếp cận với chính sách.
- Giải pháp phát huy hiệu quả mô hình liên kết kinh tế
Trong thời gian tới, để thúc đẩy phát triển liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản nhằm phấn thực hiện mục tiêu lớn nhất đến năm 2025, tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế của ngành ông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm từ 3-5%; thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn đạt khoảng 5.000 USD/người/năm, xin đề xuất một số giải pháp pháp phát huy hiệu quả của liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh như sau:
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học một là, tiếp tục đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển toàn diện ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển dịch vụ, công nghiệp với nông nghiệp và lợi thế của thị trường để thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông thôn và tái cơ cấu nông nghiệp. Gắn kết quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa – hiện đại hóa với xây dựng nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu phát triển toàn diện, bền vững, đi vào chiều sâu, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và môi trường sống của người dân nông thôn.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy hoạch và xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế – kỹ thuật cho vùng nguyên liệu ngành nông nghiệp. Việc quy hoạch và xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trước hết phải ưu tiên phục vụ cho sự phát triển của các loại cây trồng, vật nuôi chủ đạo. Tùy đặc điểm từng địa phương trong tỉnh, cần tập trung xây dựng yếu tố nào trong hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc đầu tư xây dựng hệ thống kỹ thuật có ý nghĩa dẫn đường cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Việc này cần phải có sự quản lý, điều hành của chính quyền đối với công tác quy hoạch, thiết kế đến tổ chức huy động vốn, xây dựng công trình, khai thác và quản lý công trình vì người dân với trì độ, năng lực vốn còn hạn chế mà lại thực hiện theo hướng tự phát, nhỏ lẻ. Cần huy động mọi nguồn lực đầu tư, nâng cấp và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, và cho các vùng nguyên liệu nói riêng.
Ưu tiên phát triển cây, con chủ lực của tỉnh, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của địa phương gắn với triển khai Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” OCOP theo 3 trục chủ lực: Sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực cấp tỉnh và nhóm sản phẩm là đặc sản của địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.
Ba là, xây dựng và lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp. Mỗi hình thức có nội dung tổ chức và quản lý khác nhau, phù hợp với mỗi khâu của ngành hàng nông sản, thể hiện những ưu việt trong liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản khác nhau. Vì vậy, để tổ chức và quản lý sản xuất phát huy được vai trò của nó, để liên kết phát huy vai trò gắn kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản cần xây dựng và lựa chọn các hình thức tổ chức thích hợp. Tổ chức lại sản xuất theo hướng gắn kết chặt chẽ và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu nuôi, trồng, thu mua, chế biến và xuất khẩu. Trong đó, tổ chức lại các hộ theo mô hình quản lý cộng đồng (nhóm hộ, hợp tác xã, hiệp hội…); sắp xếp lại hệ thống các cơ sở chế biến và tiêu thụ phù hợp với các vùng sản xuất nguyên liệu theo phạm vi thích hợp của từng địa phương.
Bốn là, có cơ chế hỗ trợ nông dân, cơ sở chế biến trong tổ chức các hoạt động liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Tham gia liên kết là các hộ nông dân, cơ sở chế biến nhỏ nên hạn chế về thông tin và trình độ tham gia liên kết. Đặc biệt, trong soạn thảo và thực thi hợp đồng liên kết sẽ phát sinh nhiều vấn đề về pháp lý và kinh tế do hoạt động sản xuất nông nghiệp chịu nhiều tác động khách quan, kỷ luật trong thực thi pháp luật về kinh tế còn thấp. Vì vậy, khi triển khai các hoạt động liên kết không tránh khỏi những lúng túng. Do đó, tỉnh cần hỗ trợ các tác nhân tham gia liên kết trở thành yêu cầu mang tính cấp thiết.
Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức hội nghề của tỉnh cần lựa chọn các doanh nghiệp có tiềm lực, đặc biệt là các doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có sự tác động tương hỗ và có uy tín trong các quan hệ liên kết để giới thiệu cho nông dân. Tạo môi trường thuận lợi, nhất là các thủ tục hành chính, các chính sách kinh tế thu hút cho các doanh nghiệp đầu tư vào ngành nông nghiệp.
Năm là, nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng và ý thức pháp luật của các chủ thể trong liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các hiệp hội ngành hàng của tỉnh ngày càng có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, phát triển và nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản.
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học sáu là, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền làm thay đổi mạnh mẽ về nhận thức, tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ lẻ, truyền thống của nông dân sang phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, làm thay đổi cách nghĩ, cách làm từ cá thể sang tập thể, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác; tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giảm giá thành giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm gắn với chuỗi giá trị và phát triển bền vững. Tập trung phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nông thôn, đáp ứng nhu cầu lao động cho các ngành kinh tế khác trên địa bàn; giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng đời sống của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn.
Bảy là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hoạt động của chương trình xúc tiến thương mại với những mặt hàng nông sản, hỗ trợ nâng cao năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp về nghiên cứu thị trường, phát triển hệ thống phân phối hàng nông sản, tổ chức hội chợ hàng nông sản cấp vùng và cấp miền, các hội nghị kết nối cung cầu hàng hóa, hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá hàng nông sản của tỉnh trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Tăng cường tổ chức các hội thảo, hội chợ xúc tiến thương mại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người sản xuất triển lãm, quảng bá, giới thiệu sản phẩm và có cơ hội để gặp gỡ, kết nối.
3.Kết Luận Tiểu luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
Liên kết kinh tế giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản là quá trình mang tính tất yếu khách quan, nhưng khó xảy ra. Bởi vì trong quá trình này, nông dân là chủ thể của quá trình sản xuất nông sản, doanh nghiệp là chủ thể của chế biến và tiêu thụ nông sản. Trình độ tổ chức sản xuất, những mối quan hệ với thị trường có sự chênh lệch lớn, nhất là sản xuất ở vùng miền còn khó khăn. Vì vậy, trong chuỗi giá trị nông sản, những người sản xuất (nông dân) thường là những người chịu thiệt thòi, những người chế biến và tiêu thụ nông sản (doanh nghiệp) thường là những người nắm vai trò chủ động và có lợi trong chuỗi. Với đặc điểm này, vấn đề đặt ra là người cần liên kết lại không có trình độ tổ chức các hoạt động liên kết; người có lợi trong chuỗi, có khả năng tổ chức các hoạt động liên kết lại không muốn liên kết. Vì vậy, vai trò của Nhà nước trong tổ chức và duy trì các hoạt động liên kết giữ vai trò hết sức quan trọng.
Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh rất quan tâm đến các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản. Để cụ thể hóa vấn đề này, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 về việc ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 35/2019/QĐ-UBND ngày 11/11/2019 về quy định triển khai thực hiện Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh. Tin rằng, với cơ sở quan trọng này, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp cung ứng đầu vào và đầu ra, với mục tiêu nâng cao chuỗi giá trị nông sản. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng góp phần thực hiện kế hoạch của ngành nông nghiệp tỉnh nhà là tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững./
Trên đây là toàn bộ Mẫu Tiểu Luận Môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học là một trong những nguồn tài liệu vô cùng hữu ích mà mình đã liệt kê và đồng thời triển khai đến cho các bạn sinh viên cùng xem và tham khảo. Nếu như các bạn sinh viên cần viết một bài tiểu luận hãy tìm đến ngay dịch vụ làm tiểu luận thuê chất lượng qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá và hỗ trợ nhanh nhất có thể nhé.